
Tiếp cận đau mạn tính theo phương pháp Janda- giới thiệu
Phương pháp tiếp cận của Janda đối với việc đánh giá và quản lý cơn đau cơ xương mãn tính tập trung vào tầm quan trọng của hệ thần kinh trung ương trong việc điều trị cơn đau mãn tính thông qua sự mất cân bằng thần kinh cơ.
Vladimir Janda ( 1928-2002) là một bác sĩ thần kinh, vật lý trị liệu, bác sĩ lâm sàng và nhà nghiên cứu nổi tiếng đến từ Praha. Công trình nghiên cứu sâu rộng của ông về lý thuyết mất cân bằng cơ trong các bệnh lý chỉnh hình và thần kinh cơ đã mang lại cho ông danh hiệu “Cha đẻ của Phục hồi chức năng”. Những khó khăn cá nhân với hội chứng hậu bại liệt và khó khăn khi đi lại sau đó đã khơi dậy niềm đam mê của ông đối với các rối loạn chức năng của hệ thống cơ và xương. Ông là một trong những bác sĩ đầu tiên kết hợp y học và trị liệu theo phương pháp thực hành.
Cấu trúc so với Chức năng
Trong y học cơ xương khớp, có hai trường phái chính: tiếp cận cấu trúc hoặc chức năng. Trong tiếp cận cấu trúc, bệnh lý của các cấu trúc tĩnh cụ thể được nhấn mạnh; đây là cách tiếp cận chỉnh hình điển hình, nhấn mạnh chẩn đoán dựa trên đánh giá tại chỗ và các xét nghiệm chuyên biệt (X-quang, MRI, CT, v.v.). Mặt khác, tiếp cận chức năng nhận diện chức năng của tất cả các quá trình và hệ thống trong cơ thể, thay vì tập trung vào một vị trí bệnh lý duy nhất. Mặc dù tiếp cận cấu trúc là cần thiết và có giá trị đối với chấn thương cấp tính hoặc đợt cấp, nhưng tiếp cận chức năng lại được ưu tiên hơn khi điều trị đau cơ xương khớp mãn tính.
Hệ thống cảm biến vận động
Trong chứng đau mãn tính, các xét nghiệm chẩn đoán đặc biệt ở các vùng khu trú (ví dụ, chụp X-quang lưng dưới) thường cho kết quả bình thường, mặc dù bệnh nhân có than phiền về cơn đau. Vị trí đau thường không phải là nguyên nhân gây đau. Bằng chứng gần đây ủng hộ thực tế rằng chứng đau mãn tính có trung gian là trung ương (Staud và cộng sự, 2001). Tương tự, nghiên cứu về hiệu quả của các phương thức tập thể dục khác nhau để quản lý chứng đau mãn tính đã chỉ ra tác dụng trung ương của việc tập thể dục trong việc giảm chứng đau lưng dưới mãn tính (Mannion và cộng sự, 1999). Nghiên cứu này ủng hộ cơ sở cho phương pháp tiếp cận của Janda: sự phụ thuộc lẫn nhau của hệ thống cơ xương và hệ thần kinh trung ương. Janda tuyên bố rằng hai hệ thống giải phẫu này không thể tách rời về mặt chức năng. Do đó, thuật ngữ hệ thống “cảm biến vận động” được sử dụng để định nghĩa hệ thống chức năng vận động của con người. Ngoài ra, những thay đổi trong một phần của hệ thống sẽ được phản ánh bằng sự bù trừ hoặc thích nghi ở những nơi khác trong hệ thống do nỗ lực cân bằng nội môi của cơ thể (Panjabi, 1992).
Hệ thống cơ thường phản ánh trạng thái của hệ thống cảm giác vận động, vì nó nhận thông tin từ cả hệ thống cơ xương và hệ thống thần kinh trung ương. Những thay đổi về trương lực trong cơ là phản ứng đầu tiên đối với cảm giác đau của hệ thống cảm giác vận động. Điều này đã được chứng minh bởi nhiều nghiên cứu khác nhau chứng minh tác động của bệnh lý khớp lên trương lực cơ. Ví dụ, sự hiện diện của tràn dịch khớp gối gây ra sự ức chế phản xạ của cơ vastus medialis (Stokes & Young, 1984). Cơ đa chân (multifidus) đã được chứng minh là teo ở những bệnh nhân bị đau thắt lưng mãn tính (Hides và cộng sự, 1994) và các cơ biểu hiện độ trễ (latency) tăng lên sau khi bong gân mắt cá chân (Konradsen & Raven, 1990) và rách dây chằng chéo trước (Ihara & Nakayama, 1986). Bullock-Saxton (1994) đã chứng minh tác động toàn thể của bệnh lý khớp lên hệ thống cảm giác vận động. Bà lưu ý đến sự chậm trễ trong các kiểu kích hoạt của cơ hông và giảm cảm giác rung ở những bệnh nhân bị bong gân mắt cá chân.
Do sự tham gia của hệ thần kinh trung ương vào sự mất cân bằng cơ và đau, Janda nhấn mạnh tầm quan trọng của hệ thống cảm thụ bản thể hướng tâm. Một vòng phản xạ từ các thụ thể cơ học bao khớp và các cơ xung quanh khớp chịu trách nhiệm ổn định khớp phản xạ (Guanche và cộng sự, 1995; Tsuda và cộng sự, 2001). Trong tình trạng mất vững mạn tính, sự mất cảm giác hướng tâm (mất thông tin hướng tâm thích hợp từ khớp) thường là nguyên nhân gây ra sự ổn định khớp kém (Freeman và cộng sự, 1965).
Hệ thống cơ Tonic và Phasic
Janda đã xác định hai nhóm cơ dựa trên sự phát triển phát sinh loài của chúng (Janda, 1987). Về mặt chức năng, cơ có thể được phân loại thành “cơ trương lực” hoặc “cơ pha”. Hệ thống cơ trương lực (tonic) bao gồm các “cơ gấp”, và có nguồn gốc cổ xưa và chiếm ưu thế về mặt phát sinh loài. Các cơ này tham gia vào hoạt động lặp lại hoặc nhịp nhàng (Umphred, 2001), và được kích hoạt trong sự phối hợp cơ gấp. Hệ thống pha (phasic) bao gồm các “cơ duỗi”, và xuất hiện ngay sau khi sinh. Các cơ này hoạt động ly tâm chống lại trọng lực và xuất hiện trong sự phối hợp cơ duỗi (Umphred, 2001).
Janda lưu ý rằng các cơ thuộc hệ thống trương lực dễ bị căng cứng hoặc co rút, còn các cơ thuộc hệ thống pha dễ bị yếu hoặc ức chế (Bảng dưới). Dựa trên các quan sát lâm sàng trên bệnh nhân chỉnh hình và thần kinh, Janda nhận thấy phản ứng này dựa trên phản ứng thần kinh của cảm giác đau trong hệ thống cơ. Ví dụ, sau các tổn thương cấu trúc ở hệ thần kinh trung ương (như bại não hoặc tai biến mạch máu não), các cơ gấp trương lực có xu hướng co cứng và các cơ duỗi pha có xu hướng mềm nhéo. Do đó, các kiểu mất cân bằng cơ có thể là do ảnh hưởng của hệ thần kinh trung ương, chứ không phải do những thay đổi cấu trúc bên trong cơ.
Điều quan trọng cần lưu ý là phân loại này không cứng nhắc, vì một số cơ có thể biểu hiện cả đặc điểm trương lực và pha. Cũng cần lưu ý rằng ngoài khuynh hướng thần kinh gây căng cứng hoặc yếu cơ, những thay đổi về cấu trúc bên trong cơ cũng góp phần gây mất cân bằng cơ. Tuy nhiên, trong trường hợp đau mãn tính tập trung ở hệ thần kinh trung ương, các kiểu mất cân bằng cơ thường là kết quả của ảnh hưởng thần kinh hơn là những thay đổi về cấu trúc.
Cơ trương lựcDễ bị căng hoặc ngắn | Cơ Pha
Dễ bị yếu hoặc ức chế |
Các cơ bắp chân sauCơ khép hông
Gân kheo Cơ thẳng đùi Cơ chậu thắt lưng Cơ căng cân đùi Cơ lê Cơ duỗi ngực-thắt lưng Cơ vuông thắt lưng Cơ ngực lớn Cơ thang trên Cơ nâng xương bả vai Cơ thang (Scalenes) Cơ ức đòn chũm Cơ gấp chi trên |
Cơ mác dài và cơ mác ngắnCơ tứ đầu đùi
Cơ mông lớn, nhỡ, bé Cơ thẳng bụng Cơ răng cưa trước Hình thoi Cơ thang dưới Cơ gấp cổ sâu Cơ duỗi chi trên |
Bảng: Cơ trương lực và cơ pha
Nguồn: http://www.jandaapproach.com/the-janda-approach/philosophy/
- Bs Đỗ Thị Thúy Anh dịch lời giới thiệu