Tài liệu Y học

Thư viện tài liệu học tập Y học

Lọc nâng cao

Chuyên ngành

Tiếng Việt

TIẾP CẬN TRỊ LIỆU NHẬN THỨC HÀNH VI- phần 1

Chuyên ngành: Can thiệp, Tâm lý lâm sàng
Bài viết được thay đổi một số từ chuyên môn và cấu trúc chương, đảm bảo chuyển ngữ phù hợp với hoạt động lâm sàng đa ngành, tích hợp chuyên ngành Tâm thần.

- BS Đỗ Thị Thuý Anh chỉnh lý

LỜI NÓI ĐẦU

-Tiến sĩ Steven Halford – Nhà tâm lý lâm sàng cao cấp – Dịch vụ sức khỏe Quốc gia London- UK-

Khi bạn mở sách này và bị cuốn hút vào nội dung của từng trang sách, đó là điều hoàn toàn chắc chắn để đưa ra nhận định rằng bạn đang làm việc hoặc quan tâm tới những người gặp khó khăn về mặt tâm lý theo kiểu này hoặc kiểu khác, có thể là trầm cảm, lo âu hoặc những rối nhiễu trầm trọng hơn về mặt tâm lý, hoặc có thể bạn là một người quan tâm, đang tò mò tìm hiểu về Trị liệu nhận thức hành vi, không biết nó nói về điều gì và nó có liên quan đến cuộc sống của chính bạn theo cách thức như thế nào.

Dù cho bất cứ điều gì thúc đẩy bạn chú ý vào những thông tin và ý tưởng trong cuốn sách này, tôi khuyến khích bạn không chỉ đọc những từ ngữ trên trang giấy mà còn chủ động nỗ lực ngẫm nghĩ, phản ảnh qua kinh nghiệm của bản thân – nguồn sinh động nhất của học tập – mang những ý tưởng ở đây vào trong cuộc sống. Khi đọc cuốn sách này bạn có lẽ sẽ tự hỏi bản thân, điều này áp dụng cho tôi hoặc bệnh nhân/thân chủ của tôi như thế nào? Làm thế nào mà các ý tưởng hay các triết lý trên có thể giúp tôi trong công việc hoặc cho chính vấn đề của tôi và tôi có thể vận dụng nó trong thực hành theo cách nào.

Vinh hạnh cho tôi khi viết lời giới thiệu cho cuốn sách này, vì theo tôi đó là một cuốn sách vô cùng giá trị, cần có trong danh mục sách tham khảo chuyên sâu cho sinh viên y khoa, sinh viên công tác xã hội, tham vấn và tâm lý.

Rối nhiễu tâm thần là một vấn đề có tầm quan trọng toàn cầu, và tại Việt Nam, vào những năm 2001-2003, bệnh tật về mặt tinh thần là một trong mười căn bệnh phổ biến nhất đã xảy ra, chiếm tới 15% mà theo ước tính khoảng 12 triệu người tại Việt Nam cần đến dịch vụ sức khỏe tâm thần và tâm lý (Vuong, 2011). Trong năm 2004, có khoảng 33% phụ nữ đến thăm khám tại các phòng khám tổng quát tại thành phố Hồ Chí Minh bị trầm cảm và 19% trong số đó có nguy cơ cao với ý tưởng tự sát (Fischer, 2004).

Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đưa ra nhận định rằng sức khỏe tinh thần là một trong những bệnh để lại gánh nặng đáng kể về mặt kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, tại Việt Nam, khoảng 60 bệnh nhân bị vấn đề về sức khỏe tinh thần điều trị ngoại trú thì chỉ có khoảng 20% trong số họ được điều trị và can thiệp về mặt tâm lý. Một cách ngắn gọn, theo ước tính từ WHO, tại Việt Nam cứ khoảng 1.7 triệu người thì mới có một nhà tâm lý được huấn luyện.

Điều tôi quan tâm không phải làm cho các bạn choáng ngợp hay cảm thấy căng thẳng vì những con số, nhưng đó là một câu chuyện hết sức dễ hiểu, cho biết rõ tình hình thực tế, giúp chúng ta tìm ra giải pháp ứng phó hợp lý. Một lần nữa, bệnh tật về mặt sức khỏe tinh thần là một vấn đề cần lưu ý và cần được cung cấp điều trị một cách thoả đáng, tuy nhiên điều đó vẫn chưa thật sự phát triển.

Trải qua nhiều thập niên cho đến nay các nhà tâm lý đã làm những nghiên cứu trên diện rộng và vẫn tiếp tục trả lời những kết quả như nhau. Yếu tố sinh học chỉ là một phần của vấn đề: Đã là con người thì phải có yếu tố tinh thần, và khi họ phiền muộn hoặc phải trải nghiệm các rắc rối về tâm lý, thì sẽ có những tiến trình tâm lý rõ ràng, có thể nhận biết được diễn ra trong tâm trí của họ, mà từ đó kích hoạt duy trì các vấn đề tâm lý.

Nếu chúng ta mong ước giúp người khác hoặc giúp bản thân chúng ta một cách thích đáng với các khó khăn về mặt tâm lý, điều cần thiết phải dựa trên hướng tiếp cận lý thuyết tâm lý tốt để dẫn dắt chúng ta và Trị liệu nhận thức hành vi đã làm được điều đó. Trị liệu nhận thức hành vi là một hướng tiếp cận giúp lý giải những gì đang xảy ra trong tâm trí gây ra bất hạnh và sầu khổ, lo âu, sợ hãi hoặc bị đau đớn với các cơn công kích hoảng loạn, bùng nổ giận dữ hoặc ghen tuông hoặc những chuỗi cảm giác nghi ngờ bản thân liên tục xảy ra: Liệu chúng ta có đủ tốt hay không?

Khi viết cuốn tài liệu này, cô Lê Thị Minh Tâm đã cẩn thận phác thảo những điểm chính yếu về sự phát triển của Trị liệu nhận thức hành vi và nền tảng lý thuyết của nó trước khi hướng người đọc đến tầm quan trọng của việc áp dụng Trị liệu nhận thức hành vi trong các vấn đề cụ thể bao gồm cả nhiệm vụ tinh tế và phức tạp trong việc kiểm soát nguy cơ gây bệnh. Trái tim của liệu pháp là quan tâm và xây dựng mối quan hệ cảm xúc phù hợp giữa thân chủ và nhà tham vấn, trong đó, nhiệm vụ ban đầu và cơ bản đối với một nhà tham vấn là hiểu vấn đề thông qua huấn luyện, kỹ năng của họ và phản ứng cảm xúc của chính họ, các trải nghiệm tâm lý và cảm xúc của thế giới nội tâm với thân chủ của họ. Cô Tâm tiếp cận Trị liệu nhận thức hành vi theo cách thức này, kinh nghiệm làm việc, hướng dẫn và giám sát chuyên môn của tôi với cô Tâm cho tôi biết đóng góp giá trị của cô cho cuốn sách này sẽ dựa trên nền tảng của việc đi vào trái tim và tâm hồn để giúp đỡ tâm trí người khác.

Tôi hy vọng cuốn sách này cũng giúp bạn “hòa nhịp vào trong” các vấn đề tâm lý và tình cảm tinh tế mà những người bạn đang làm việc phải đối mặt, cũng như khơi gợi sự tò mò và quan tâm của bạn trong các vấn đề quan trọng cơ bản để lý giải cách thức hoạt động của tâm trí con người.

-Tiến sĩ Lê Thị Minh Tâm-

Tháng 08 năm 2010 khi đang tham khảo tài liệu “Lý thuyết tham vấn và trị liệu tâm lý: Hướng tiếp cận hệ thống” xuất bản năm 2004 của Giáo sư, Tiến sĩ Peter Fabian, đang giảng dạy tại Khoa tâm lý Đại học Edgewood, Hoa Kỳ. Tiến sĩ Steven Halford, người giám sát và hỗ trợ chuyên môn của tôi tại Đại Học RMIT Việt Nam hỏi ý kiến tôi về tài liệu đó vì ông muốn bổ sung nó vào trong danh mục sách tham khảo của ông. Tôi có nói với ông rằng: “Cuốn tài liệu này rất hay, khúc chiết, giới thiệu được những hướng tiếp cận trị liệu hiện nay đang được áp dụng trên thế giới một cách hệ thống theo trình tự thời gian và từng thời kỳ phát triển của nó, trong đó tác giả cũng nêu lên các nhận định và ý kiến riêng của mình, nên tôi nghĩ rằng nó rất có giá trị tham khảo cho chúng ta”. Tôi rất quý mến và thán phục về chuyên môn cũng như phong cách làm việc chuyên nghiệp của ông, tôi mong muốn nếu như ông đồng ý, tôi có thể dịch sách của ông để cho những đồng nghiệp Việt Nam tham khảo. Ông chia sẻ với tôi: “Dịch sách cũng là một công việc rất công phu, đòi hỏi nhiều công sức, tôi nghĩ rằng cô có khả năng, cô có kinh nghiệm, cô có thể viết những cuốn sách của chính mình!”, “Làm việc với cô, tôi cũng học hỏi được nhiều, giúp tôi hiểu hơn về giới trẻ Việt Nam, về phong tục tập quán và tâm lý người Việt, trong đó nền tảng gia đình là một trong những yếu tố tác động nhiều đến tâm lý của trẻ!”. Lời động viên và khuyến khích của ông giúp tôi suy nghĩ thêm về việc mình sẽ bắt đầu như thế nào và sẽ viết những gì để nói về công việc của tôi, một chuyên viên tham vấn tâm lý áp dụng trị liệu nhận thức hành vi làm việc với giới trẻ. Điều này đã thực sự ám ảnh và thôi thúc tôi cầm bút.

Tập huấn trị liệu nhận thức hành vi như là một đòn bẩy để tôi phác thảo, thiết kế và xây dựng cuốn tài liệu này. Tháng 04 năm 2011, sau nhiều tháng ấp ủ, Trung tâm Tham vấn – Thực hành Công Tác Xã Hội, Bộ môn Công tác Xã hội thuộc Đại Học Khoa Học Xã Hội Nhân Văn Thành Phố Hồ Chí Minh đã tổ chức rất thành công lớp huấn luyện cơ bản về “Liệu pháp nhận thức hành vi”. Trong quá trình tập huấn sau phần thảo luận về lý thuyết, quý anh chị học viên đặt nhiều câu hỏi về cách áp dụng lý thuyết vào thực tế:

– Liệu lý thuyết này nó có “Tây” quá hay không?
– Chúng tôi muốn nhìn, quan sát cách làm việc của nhà tham vấn áp dụng Trị liệu nhận thức hành vi và thân chủ?
– Tiến trình của nó như thế nào, đặc biệt là trong phiên đầu tiên và các phiên trị liệu tiếp theo?
– Áp dụng tiếp cận nhận thức hành vi vào làm việc với thân chủ có trường hợp nào bị thất bại không?…

Câu trả lời của ban huấn luyện nhận được sự đồng tình của một số học viên, số khác cũng phản đối và đưa ra ý kiến riêng của mình, số khác cho rằng khi áp dụng rồi thì sẽ hiểu hơn… Điều này cho thấy sự đa dạng về quan điểm và hướng nhìn trong cùng một sự kiện xảy ra. Trong hạn chế của khóa học, chúng tôi chỉ có thể trả lời trong phạm vi cho phép của lớp học đó, có những câu hỏi chúng tôi nhờ chính những học viên đứng lên trả lời thay cho chúng tôi dưới quan điểm của họ sau khi kết thúc khóa học này và có những câu vẫn còn để mở cho anh chị học viên tự trả lời. Riêng tôi, tôi rất tâm đắc với câu nói của ông Clyde Vanworth, đến từ Mỹ, là người huấn luyện chính cùng với tôi trong khóa tập huấn cho rằng: “Một kỹ sư làm việc, sửa chữa máy móc, cần có công cụ và đồ nghề, tùy vào vấn đề gì, bộ phận nào mà họ sử dụng công cụ đó. Chúng ta làm công việc này cũng cần có công cụ, có một bộ đồ nghề của chính chúng ta. Chúng ta cần biết nhiều công cụ và thành thục một vài công cụ, Liệu pháp nhận thức hành vi là một công cụ cần thiết có trong bộ đồ nghề của chính chúng ta”. Tiến sĩ Peter cho rằng, không có một lý thuyết nào là vạn năng cả, không phải lý thuyết này dùng để điều trị cho mọi vấn đề của thân chủ, mỗi lý thuyết được thiết lập dựa trên một niềm tin mạnh mẽ và quan điểm mạnh mẽ của chính những người sáng lập ra nó, người thực hành sẽ áp dụng lý thuyết phù hợp với quan điểm, với nhân cách của chính người đó và phụ thuộc vào từng loại vấn đề của từng thân chủ cụ thể nữa. Đối với lý thuyết nhận thức hành vi theo Albert Ellis, một trong những nhà sáng lập Liệu pháp nhận thức hành vi ban đầu với tên là Liệu pháp Hành vi Xúc cảm Hợp lý đã yêu cầu rằng: Nhà trị liệu là người cần thực hành liệu pháp cho chính bản thân anh ta (hoặc cô ta), để từ đó có thể nêu gương bản thân mình hướng đến việc giúp thân chủ thành công.

Với tư cách là một người áp dụng hướng tiếp cận nhận thức hành vi cho bản thân và trong quá trình làm việc với thân chủ là sinh viên, học sinh, thanh thiếu niên, với những người trưởng thành trong cộng đồng cùng các vần đề liên quan đến cá nhân, mối quan hệ như gia đình, tình bạn, tình yêu, các rối nhiễu tinh thần như lo âu, trầm cảm, stress… và huấn luyện cho tham vấn viên mới hành nghề, hay hỗ trợ chuyên môn cho nhân viên công tác xã hội đang làm việc với trẻ đường phố, trong lĩnh vực HIV/AIDS và hỗ trợ tâm lý cho cộng đồng, cùng với sự động viên của quý đồng nghiệp và những ý tưởng thôi thúc sau khóa huấn luyện cơ bản về lý thuyết nhận thức hành vi, hơn nữa tôi đã tham gia vào phần thực nghiệm áp dụng trị liệu nhận thức hành vi trong việc giải quyết xung đột giữa cha mẹ và học sinh phổ thông cơ sở liên quan đến thần tượng, tôi xin giới thiệu cuốn tài liệu này. Có thể coi đó là cuốn cẩm nang đồng hành cùng với chúng ta, những người đang làm việc trên lĩnh vực tham vấn, hỗ trợ tâm lý, trị liệu, cho cả những ai muốn tìm kiếm một lý thuyết tiếp cận phù hợp với quan điểm triết lý nhân sinh quan của họ và cho cả quý độc giả, những ai đang muốn tìm kiếm những nhà tham vấn hay những nhà trị liệu đang thực hành liệu pháp nhận thức hành vi biết được cách tiếp cận tham vấn trị liệu cho họ, từ đó có được kiến thức hoặc hiểu biết cần thiết có thể an tâm hơn để đến với nhà trị liệu hoặc giới thiệu cho người thân của mình, điều này cũng phù hợp với tiêu chí của liệu pháp.

Trong tài liệu này, quý độc giả sẽ tìm thấy không chỉ vấn đề lý thuyết mà còn thực hành. Những ví dụ áp dụng trong phân tích là những trường hợp điển hình trong thực tế công việc và trong cuộc sống, những cái tên được sử dụng làm ví dụ đã được thay đổi để phù hợp với nguyên tắc bảo mật trong tham vấn tâm lý.

Dưới đây là mục tiêu mong đợi của tài liệu:
– Giúp độc giả hiểu một cách khái quát về hướng tiếp cận về trị liệu nhận thức hành vi.
– Giúp độc giả làm quen với các khái niệm, các quan điểm, phương pháp cũng như mô hình của
liệu pháp nhận thức hành vi.
– Học được cách thức nhận diện những suy nghĩ tự động tiêu cực tác động đến hành vi và cảm xúc.
– Học được cách cấu trúc lại hệ thống suy nghĩ dựa trên mô hình nhận thức hành vi.
– Học được cách thức sử dụng lý thuyết trị liệu nhận thức hành vi để hiểu về các vấn đề và các khó khăn của thân chủ.
– Học được cách áp dụng các hiểu biết này trong việc lên kế hoạch tham vấn trị liệu và thiết kế, xây dựng một phiên tham vấn trị liệu cụ thể.
– Từng bước xây dựng chiến lược và thực hành một cách sáng tạo trong việc giải quyết vấn đề.

LỊCH SỬ, HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ ỨNG DỤNG CỦA LIỆU PHÁP

Lịch sử và hoàn cảnh ra đời

Liệu pháp nhận thức hành vi ra đời từ thập niên 1950 và đến năm 1990 liệu pháp này được sử dụng rộng rãi trên thế giới.

Liệu pháp nhận thức hành vi được hiểu một cách cơ bản là liệu pháp được áp dụng để tìm hiểu và điều trị các dạng suy nghĩ tiêu cực trong nhận thức của con người về một tình huống hay một sự kiện nào đó gây nên các vấn đề tâm lý, các mối quan hệ hay các rối nhiễu về mặt tinh thần của chính cá nhân đó.

Khi một sự kiện nào đó xảy ra kích hoạt suy nghĩ của một cá nhân, suy nghĩ tác động lên cảm xúc đưa đến việc cá nhân đó hành động ra bên ngoài và hành động đó, suy nghĩ đó, cảm xúc đó tác động lên thể lý của cá nhân đó. Đôi khi chúng ta bị bệnh thực thể cũng tác động đến cảm xúc và suy nghĩ và hành động của chính chúng ta. Suy nghĩ, cảm xúc, hành vi, thể lý có sự tác động qua lại lẫn nhau.

Ví dụ: Long 15 tuổi, xung đột với cha về việc em có thần tượng là ngôi sao ca nhạc NV, em thích để mái tóc giống như thần tượng của mình, mái tóc trước dài che phủ một bên mắt và nhuộm vàng, thỉnh thoảng em dùng tay vén mái tóc mình sang một bên tai hoặc để phủ một nửa mặt, thỉnh thoảng lại hất ngược mái tóc lên. Sau một lần cãi nhau với ba, ba đem kéo xẻn mái tóc của em, em giận dữ bỏ nhà ra đi. Suy nghĩ tự động xuất hiện trong đầu Long là “Ba ghét em”, “Ba xem mái tóc hơn em”, “Không ai hiểu em hết” với cảm xúc giận dữ của Long được cho thang điểm 10 (thang đo cảm xúc từ 0 – 10 theo mức độ tăng dần trong đó 10 là ở cấp độ cao nhất), tổn thương ở mức độ cao nhất 10 và lo lắng ở cấp độ 5.

Lý thuyết về nhận thức xây dựng dựa trên 3 điểm cơ bản: (1) Thứ nhất cho rằng hiểu biết về quan điểm mà ta lựa chọn ảnh hưởng đến tâm trạng của ta; (2) thứ hai cách thức suy nghĩ và tâm trạng có mối liên hệ với nhau vì thế thay đổi suy nghĩ có thể thay đổi tâm trạng và ngược lại; và (3) thứ ba học cách thức làm việc dựa trên suy nghĩ và niềm tin của chính bản thân.

Trong tham vấn và trị liệu tâm lý, việc tìm kiếm những niềm tin cốt lõi, những lỗi hệ thống trong suy nghĩ gây nên các vấn đề của thân chủ sẽ giúp cho thân chủ có thể cấu trúc lại suy nghĩ, thay đổi cảm xúc, chuyển đổi hành vi để vượt qua khó khăn, cải thiện các mối quan hệ, giải quyết được vấn đề cũng như các rối nhiễu tinh thần cần thiết.

Theo tiến sĩ Peter, (2004), các liệu pháp nhận thức là dạng liệu pháp dùng để kiểm tra tiến trình nhận thức như là một chỉ báo về sức khỏe tinh thần hoặc các bệnh tinh thần, chính suy nghĩ và niềm tin của chúng ta chi phối chúng ta. Các bệnh tinh thần xảy ra khi suy nghĩ của chúng ta bị bóp méo và chúng ta hành động theo suy nghĩ đó. Liệu pháp nhận thức hành vi tập trung vào việc làm thế nào để thay đổi những suy nghĩ này và khôi phục tâm trí chúng ta trở về suy nghĩ thích hợp.

Bác sĩ Đặng Phương Kiệt, (2000), cho rằng: “Cách tiếp cận nhận thức nhìn nhận những vấn đề rối nhiễu tâm lý được xem như là hậu quả của những cái nhìn méo mó trong thực tại của một tình huống hoặc của chính bản thân, của việc lý luận sai lầm hoặc lý giải một vấn đề không thỏa đáng”.

Tiến sĩ Võ Văn Bản, (2002), diễn giải: “Mặc dù nhận thức thuộc về phạm trù của tư duy, nhưng liên quan chặt chẽ với các chức năng khác như trí tuệ, đặc biệt là cảm xúc, nhận thức bao gồm nhận thức cảm tính và lý tính, khi nhận thức sai lệch thuộc về nhận thức cảm tính thì dễ thay đổi hơn là thuộc về nhận thức lý tính” (trang 265).

Cơ sở khoa học

Nguồn gốc của Lý thuyết hành vi và nhận thức hành vi bắt nguồn từ trong lý thuyết học tập cổ điển (các tiếp thu có được thông qua rèn luyện có điều kiện và có thể quan sát đo lường được) và lý thuyết tập nhiễm xã hội, có nguồn gốc và cơ sở khoa học bắt đầu từ thành tựu của học thuyết phản xạ có điều kiện dựa trên các thực nghiệm của Pavlov 1927). Cũng cùng thời gian trên, Skinner (1938) và các đồng nghiệp của mình mở rộng thực nghiệm điều kiện hóa, xây dựng kỹ thuật điều kiện hóa và đưa ra học thuyết về điều kiện hóa thực thi. Tiếp theo đó là những thành tựu của tâm lý học hành vi do Watson khởi xướng. Từ cơ sở trên, J.Wolpe (1952) đã phát triển và hoàn thiện liệu pháp hành vi. Song song đó, liệu pháp nhận thức cũng phát triển dưới sự ảnh hưởng lớn của Aaron Beck, Ellis, Bandura và Meichenbaum, tạo nên và khôi phục thế cân bằng, từ đó nhận thức (cả tầng vô thức và ý thức) đã gia tăng mạnh, đóng một vai trò nổi bật trong các mô hình tâm bệnh học. Về sau, nhiều tác giả ứng dụng cả hai liệu pháp trên vì tìm thấy được sự bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau giữa các kỹ thuật. Từ đó họ gộp chung lại là Liệu pháp nhận thức hành vi.

Theo thời gian cùng với sự mở rộng nghiên cứu và ứng dụng, trị liệu nhận thức hành vi đã được áp dụng rộng rãi hơn vào nhiều lĩnh vực khác nhau: Trị liệu nhận thức hành vi với bệnh nhân ung thư; trị liệu nhận thức hành vi với bệnh nhân HIV/AIDS; trị liệu nhận thức hành vi với trẻ em; trị liệu nhận thức hành vi với người già và các kỹ thuật khác có liên quan đến trị liệu nhận thức hành vi như: trị liệu ngắn trong nhận thức hành vi; liệu pháp nhận thức phân tích (CAT)…

Các ứng dụng của liệu pháp nhận thức hành vi

Aron Beck đã phát triển dạng trị liệu tâm lý từ cuối những năm 1950 và những năm đầu của thập niên 1960 với tên gọi là Trị liệu nhận thức, cho các bệnh nhân bị trầm cảm. Đến nay, hầu hết những ai đi theo hướng tiếp cận này đều sử dụng tên gọi là Nhận thức hành vi. Theo thời gian, liệu pháp Nhận thức hành vi đã được áp dụng rộng rãi ở các nước như Anh, Mỹ, Pháp và các nước phát triển khác, nó được sử dụng trong các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tinh thần ở các bệnh viện, tại trường học, cho các chương trình hướng nghiệp… Theo Tiến sĩ Stephen Brier, (2009) tại Anh, Dịch vụ về Sức khỏe Quốc gia với sự đề xuất của giáo sư Richard Layard, chính phủ đã vui vẻ chấp thuận việc đào tạo hơn 10 nghìn nhà trị liệu nhận thức hành vi trong toàn nước Anh, bởi nhiều nghiên cứu và minh chứng cho thấy rằng đây là liệu pháp có đầy đủ chứng cứ khoa học nằm trong danh sách của các liệu pháp dùng cho việc điều trị các vấn đề về sức khỏe tinh thần và được áp dụng rộng rãi.

Trị liệu nhận thức hành vi đã được điều chỉnh cho phù hợp với đa dạng đối tượng thân chủ khác nhau về trình độ học vấn, thu nhập, văn hóa, giới tính, áp dụng từ trẻ em cho đến người lớn tuổi; được vận dụng trong trị liệu với cá nhân, với nhóm và với gia đình.

Liệu pháp nhận thức hành vi được áp dụng trong việc giảng dạy kỹ năng sống, kỹ năng xã hội được vận dụng để làm việc với trẻ vị thành niên thông qua việc hướng dẫn kỹ năng kiểm soát cơn giận, kỹ năng ra quyết định (Brad Donohue, Hendra Tracy, Suzanne Gorney, 2008), kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp (Keith H.Oliver, Grayla Mangdon, 2008); làm việc với bệnh nhân ung thư…; hỗ trợ cho giới trẻ, những người có các trải nghiệm về rối nhiễu tâm trí như trầm cảm, rối nhiễu lo âu, giận dữ, rối nhiễu ăn uống… (Arthur Freeman, Stephanie H.Felgoise, Arthur M.Nezu, Christien.Nezu, Mark A, Reinecke, 2005).

Câu hỏi đặt ra là: Vì sao liệu pháp này trở nên phổ biến ở các nước phát triển và làm việc với đa dạng thân chủ như vậy?

Có 4 lý do chính: Thứ nhất nó mang tính ứng dụng; thứ hai dựa trên việc xây dựng kỹ năng; thứ ba dựa trên nghiên cứu thực nghiệm và các chứng cứ về sự thành công của các tổ chức đã được ghi nhận; thứ tư nó chuyển giao kết quả một cách nhanh chóng.

Về thực nghiệm: Trị liệu nhận thức hành vi đã được kiểm tra thực nghiệm và được công bố rộng rãi từ năm 1977, từ đó có hơn 500 nghiên cứu khác đã cho biết về hiệu quả của việc áp dụng trị liệu nhận thức hành vi cho đa dạng các vấn đề liên quan đến tâm lý, với các rối nhiễu tinh thần và các vấn đề liên quan giữa bệnh lý và tâm lý (Butler, Chapman, Forman & Beck, 2005; Chambless & Ollendick 2001; Anthony Roth & Peter Fonagy 2005). Theo tài liệu “Cái gì cho ai” được hiệu đính bởi Anthony Roth và Peter Fonagy (2005), đánh giá bình phẩm về các nghiên cứu trị liệu tâm lý đã cho thấy một số bằng chứng mạnh mẽ rằng liệu pháp CBT là một liệu pháp rất hữu ích.

Bảng : Bằng chứng về trị liệu nhận thức hành vi

Trầm cảm Bằng chứng mạnh mẽ
Rối loạn hưng trầm cảm Một số bằng chứng
Ám sợ xã hội Bằng chứng mạnh mẽ
Rối loan lo âu lan tỏa Bằng chứng mạnh mẽ
Rối loạn hoảng sợ Bằng chứng mạnh mẽ
Rối loạn ám ảnh nghi thức Một số bằng chứng
Rối loạn stress sau sang chấn Bằng chứng mạnh mẽ
Rối nhiễu ăn uống: Thèm ăn Bằng chứng mạnh mẽ
Chán ăn tâm lý Một số bằng chứng
Lạm dụng chất gây nghiện Một số bằng chứng
Vấn đề tình dục Bằng chứng mạnh mẽ
Vấn đề hành vi đối với trẻ em tự kỷ Bằng chứng mạnh mẽ

Trong các nghiên cứu được mô tả trong tài liệu này khi nhà nghiên cứu so sách cách áp dụng trị
liệu CBT với các liệu pháp khác và với thuốc trong từng dạng rối nhiễu cụ thể sẽ cho thấy rõ hơn
bằng chứng về tính hiệu quả của nó và đồng thời giúp nhà trị liệu biết cách sử dụng hợp lý các công cụ
của mình trong từng dạng rối nhiễu cụ thể. Quý độc giả có thể theo dõi bảng mô tả dưới đây cùng với
lời nhận xét của các nhà nghiên cứu và các nhà bình luận sẽ đề cập theo từng thứ tự ưu tiên 1, 2, 3.

Trầm cảm
1. Tiếp cận nhận thức hành vi.
2. Liệu pháp tâm lý tương tác cá nhân.
3. Trị liệu ngắn dựa trên cấu trúc trị liệu tâm lý tâm động.
Nhận xét: Mặc dù có bằng chứng mạnh mẽ về việc các kỹ thuật được yêu cầu sử dụng một cách rộng rãi, có một sự hỗ trợ rõ ràng từ một thực nghiệm ngẫu nhiên trong diện rộng, có một số hỗ trợ bổ sung từ một số thực nghiệm nhỏ và những chỉ định gián tiếp từ các thực nghiệm với dân số lớn với chẩn đoán không đồng nhất.

Rối loạn hưng trầm cảm
1. Giáo dục về mặt tâm lý
2. Sử dụng liệu pháp nhận thức hành vi nhằm mục đích can thiệp tái phát bệnh và quản lý triệu chứng trầm cảm, thường phối hợp với các kỹ thuật nhận thức để tạo dựng lối sống lành mạnh cho thân chủ.
3. Liệu pháp tương tác cá nhân và nhịp điệu xã hội.
4. Can thiệp gia đình, cụ thể cho các gia đình với các cách bày tỏ cảm xúc ở cấp độ cao.

Ám sợ đặc hiệu
– Liệu pháp giải cảm ứng áp dụng trong căng thẳng và làm sáng tỏ cho ám ảnh sợ máu – tổn thương thực thể.
– Nhận xét: Mặc dù có những nghiên cứu được áp dụng cho tình trạng căng thẳng cho ám ảnh sợ máu – tổn thương thực thể, kết quả cho thấy chỉ có một nhóm nghiên cứu duy nhất là phù hợp cho dạng sợ đặc hiệu này.

Ám sợ xã hội
1. Liệu pháp giải cảm ứng.
2. Liệu pháp nhận thức phối hợp với giải cảm ứng.

Rối loạn lo âu lan tỏa
1. Liệu pháp nhận thức hành vi.
2. Áp dụng các kỹ thuật thư giãn.

Rối loạn hoảng sợ, có hoặc không có ám  sợ khoảng trống
1. Liệu pháp giải cảm ứng.
2. Liệu pháp nhận thức hành vi.
3. Liệu pháp kiểm soát cơn hoảng sợ.

Rối loạn ám ảnh nghi thức
1. Liệu pháp giải cảm ứng, làm sáng tỏ và đối mặt với tình huống gây ra các cơn hoảng sợ hoặc sợ hãi.
2. Sử dụng liệu pháp tổ chức lại nhận thức và xúc cảm nhận thức hợp lý trong đó có phối hợp với giải cảm ứng.
Nhận xét: Có bằng chứng về sự pha trộn cho việc kết hợp liệu pháp nhận thức với can thiệp làm sáng tỏ và phản ứng lại (ERP) trong mức độ điều trị. Có lẽ bằng chứng sẽ mang tính thuyết phục hơn cho việc phối hợp này, khi bệnh nhân bị thất bại trong việc phản ứng với việc chỉ áp dụng đơn lẻ ERP và trong việc quản lý cách thức phản ứng lại với các căng thẳng mà có liên quan đến việc lặp đi lặp lại (và mang tính thụ động) tập trung vào các triệu chứng của các căng thẳng đó và vào các nguyên nhân và hậu quả cụ thể của nó.

Rối loạn stress sau sang chấn
1. Tiếp cận nhận thức hành vi.
2. Tiến trình xử lý và gây tê bằng sự chuyển động mắt (EMDR).
3. Cấu trúc liệu pháp tâm lý tâm động (phân tâm mới).
Nhận xét: Có một số về tiếp cận nhận thức hành vi đối với rối nhiễu stress sau sang chấn tâm lý, tất cả gợi ý về các yếu tố ảnh hưởng nổi bật và tiến trình xử lý và gây tê bằng sự chuyển động mắt cũng có bằng chứng. Sự cân bằng giữa các kỹ thuật hành vi và nhận thức hành vi cũng biến đổi theo chiều của các nghiên cứu và cũng liên quan tới các nhu cầu cụ thể của thân chủ. Sự tác động của các kỹ thuật tâm động cũng được làm sáng tỏ trong một số thử nghiệm nhỏ, nhưng các vấn đề liên quan đến phương pháp gây khó khăn cho việc nhận diện một cách rõ ràng về lợi ích của nó.

Rối loạn chán ăn tâm thần (giảm cân một cách trầm trọng /ép xác)
1. Quản lý cách thức gia cố hành vi bằng việc tưởng thưởng cho bệnh nhân nội trú (trong việc có liên quan đến biện pháp làm tăng cân).
2. Liệu pháp gia đình (cụ thể khi cung cấp cho những bệnh nhân trẻ với việc giảm cân quá mức).
3. Tiếp cận nhận thức hành vi.
4. Trị liệu tâm động tập trung.
5. Liệu pháp nhận thức phân tích.

Thèm ăn và chán ăn thất thường
1. Liệu pháp nhận thức hành vi, bao gồm quản lý chế độ ăn kiêng cho bệnh nhân với chứng thèm ăn và chán ăn thất thường.
2. Liệu pháp tâm lý tương tác cá nhân với bệnh nhân thèm ăn và chán ăn thất thường.

Tâm thần phân liệt
1. Chương trình can thiệp gia đình.
2. Sử dụng nhận thức hành vi cho hoang tưởng.
3. Giáo dục tâm lý trong việc phối hợp với can thiệp về mặt tâm lý.

Rối loạn nhân cách
1. Liệu pháp hành vi biện chứng cho rối nhiễu nhân cách ranh giới.
2. Liệu pháp tâm lý tâm động cho rối nhiễu nhân cách ranh giới.
3. Huấn luyện kỹ năng xã hội cho rối nhiễu nhân cách tránh né.

Lạm dụng rượu
1. Can thiệp giáo dục ngắn, bao gồm phỏng vấn về các động cơ cá nhân (đặc biệt cho bệnh nhân lạm dụng rượu ở cấp độ thấp và không đi kèm với các vấn đề về tâm thần).
2. Huấn luyện kỹ năng xã hội, phòng ngừa tái bệnh, gợi ý cách thức đối mặt tình huống, huấn luyện các kỹ năng ứng phó, quản lý cách thức gia cố hành vi bằng việc tưởng thưởng, phỏng vấn động cơ và trị liệu hôn nhân, thường được cung cấp phụ thêm và phối hợp theo từng cấp độ khác nhau như là một phần của một gói điều trị.
3. Tiếp cận 12 bước.
4. Tiếp cận gia cố cộng đồng.

Lạm dụng Cocaine
1. Quản lý cách thức gia cố hành vi bằng việc tưởng thưởng và các tiếp cận gia cố cộng đồng.
2. Các tiếp cận 12 bước.
3. Liệu pháp nhận thức hành vi (tập trung vào việc phòng ngừa tái phát).
4. Trị liệu hôn nhân hành vi.

Lạm dụng chất dạng thuốc phiện
– Liệu pháp hỗ trợ cảm xúc (có ít bằng chứng).
– Nhận xét: Việc điều trị thường được sử dụng nghiên cứu trong chương trình mà bao gồm cả việc duy trì sử dụng thuốc thay thế là Methadone, có một số hạn chế trong minh chứng liệu pháp hỗ trợ cảm xúc chỉ dựa trên một thử nghiệm duy nhất.

Rối loạn chức năng tình dục
1. Tiếp cận điều trị hành vi và nhận thức hành vi với mục tiêu làm giảm các lo âu tình dục và cải thiện giao tiếp cho rối nhiễu chức năng cường dương.
2. Các kỹ thuật giải cảm ứng dựa trên hành vi cho chứng co thắt âm đạo.
3.Có kỹ thuật hành vi đặc trị cho xuất tinh sớm.

Chương trình can thiệp cho trẻ em
– Sử dụng nhận thức hành vi cho điều trị trầm cảm.
– Liệu pháp tương tác cá nhân thích ứng với trẻ vị thành niên với trầm cảm.
– Liệu pháp trị liệu tâm lý tâm động cho rối nhiễu lo âu có trầm cảm.
1. Các kỹ thuật giải cảm ứng (làm sáng tỏ – đối mặt với tình huống ám sợ).
2. Liệu pháp nhận thức hành vi cho rối loạn ám ảnh nghi thức và rối loạn lo âu lan tỏa.
3. Áp dụng cách điều trị quản lý tình huống bất ngờ, quản lý cách thức gia cố hành vi bằng việc tưởng thưởng cho hành vi thích hợp trong tự kỷ.
4. Chương trình huấn luyện phụ huynh và liệu pháp nhận thức hành vi cho các vấn đề về đạo đức.
5. Liệu pháp đa dạng hệ thống – chương trình điều trị tập trung vào nền tảng gia đình và cộng đồng cho trẻ vị thành niên với các vấn đề đạo đức.
6. Điều trị dài hạn liệu pháp đa phương diện – chương trình áp dụng nhiều liệu pháp điều trị cho các rối loạn tăng động, giảm chú ý ở trẻ.
Nhận xét: Một cách tổng quát các phát triển về các minh chứng dựa trên chương trình can thiệp cho trẻ em chậm trễ hơn so với các rối nhiễu của người trưởng thành, có một số trường hợp họ dựa vào cách điều trị cho người lớn từ đó áp dụng linh động đối với trẻ em.

Chương trình can thiệp cho người già
1. Hành vi, hành vi nhận thức và cấu trúc trị liệu tâm lý tâm động đối với trầm cảm.
2. Nhận thức hành vi cho rối loạn lo âu.
3. Nhận thức hành vi cho rối loạn giấc ngủ.
4. Can thiệp về giáo dục tâm lý và trị liệu tâm lý cho người chăm sóc.
5. Định hướng thực tế cho người đãng trí bao gồm kích thích nhận thức như là một phần của định hướng thực tế.

Phần vừa nêu ở trên là phần nhận xét và tóm tắt trong cuốn tài liệu “Cái gì cho ai”, gồm các nghiên cứu đã được áp dụng và thực nghiệm tại các trường Đại học và các viện nghiên cứu như: Đại học London, Khoa Tâm lý học Sức khỏe lâm sàng thuộc Đại học London, Đại học Leeds, Đại học Wales ở Bangor, Đại học Minesota và Đại học Pennsylvania, Đại học Pittsburgh…

Tại Việt Nam, từ những thập niên 80 của thế kỷ XX những trung tâm tư vấn và hỗ trợ tâm lý bắt đầu ra đời. Tuy nhiên việc vận dụng hay áp dụng hướng tiếp cận nào thì chưa có bất kỳ nghiên cứu nào khảo sát hoặc thống kê hay miêu tả thực trạng. Tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có hơn 20 trung tâm tham vấn và hỗ trợ tâm lý, việc hiểu biết về thực trạng và hướng tiếp cận của các trung tâm tham vấn và hỗ trợ sức khỏe tinh thần tại các bệnh viện tâm thần các trung tâm chăm sóc sức khỏe tinh thần sẽ giúp cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy, tập huấn, làm việc hay viết tài liệu giáo trình phục vụ cho việc tham vấn nói riêng và cho lĩnh vực hỗ trợ tâm lý và sức khỏe tinh thần nói chung là rất cần thiết. Bác sĩ Võ Văn Bản, trong tài liệu về thực hành trị liệu tâm lý được xuất bản năm 2002 cho rằng: Trước những năm 1960 thế kỷ XX, ngành tâm thần học nói chung và liệu pháp tâm lý nói riêng vẫn chưa được chú trọng nhiều, từ những năm 1960-1970 với sự ra đời của Bộ môn Tâm thần học của trường Đại Học Y Hà Nội, Khoa tâm thần của bệnh viện Bạch Mai đã áp dụng các liệu pháp như: giải thích hợp lý, liệu pháp ám thị lúc thức và thôi miên. Từ những năm 1970-1990, áp dụng liệu pháp thư giãn luyện tập phối hợp với Yoga và cách thở của khí công tại Khoa Tâm thần Bệnh viện Bạch Mai đến năm 1990. Từ năm 1990 tới 2000, một số bác sĩ đã áp dụng liệu pháp mới như: Liệu pháp tâm lý nhóm, liệu pháp gia đình để điều trị tâm căn và các chứng gây nghiện…

Thực tế, chúng ta đã áp dụng một số liệu pháp trị liệu như đã đề cập ở trên, nhưng riêng Liệu pháp nhận thức hành vi chưa được áp dụng nhiều, ngoại trừ một vài nơi như: Phòng tham vấn và hỗ trợ tâm lý sinh viên thuộc trường Đại học Quốc tế RMIT Việt Nam; các thông tin của Giáo sư, Bác sĩ Nguyễn Hữu Thọ ; một thông tin đáng mừng khi vào trang Google để tìm về “Trị liệu nhận thức hành vi” chúng ta thấy xuất hiện rất nhiều trang web và thông tin liên quan đến trị liệu nhận thức hành vi được một số tác giả sưu tầm, dịch và chia sẻ, được đăng trên các trang cá nhân hay các trang web của Trung tâm tư vấn tâm lý, các bệnh viện tâm thần..; các thông tin rất đầy đủ về trị liệu nhận thức hành vi của Bác sĩ Nguyễn Văn Khuê và Bác sĩ Nguyễn Minh Tiến; phần nào đóng góp một cách nhìn và hiểu biết đầy đủ về tiếp cận trị liệu nhận thức hành vi, nó không những phù hợp ở các nước phương Tây mà còn cho cả phương Đông.

Về nghiên cứu thực nghiệm chúng ta có nghiên cứu của Tiến sĩ Đỗ Hạnh Nga, thuộc Trung tâm Tham vấn – Thực hành công tác xã hội, Trường Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2009-2010. Liệu pháp nhận thức hành vi đã được ứng dụng vào phần thực nghiệm tác động trong nghiên cứu xung đột tâm lý giữa cha mẹ và con lứa tuổi thiếu niên về thần tượng. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc Gia TPHCM, MS:B2008-18b-04 do Tiến sĩ Đỗ Hạnh Nga làm chủ đề tài, đã đưa ra nhận định rằng: “Thực nghiệm trong giải quyết xung đột giữa cha mẹ và học sinh lứa tuổi thiếu niên về thần tượng rất hiệu quả. Việc tìm kiếm những niềm tin cốt lõi, nhận diện được các suy nghĩ tự động tiêu cực có hại cho bản thân, từ đó lập kế hoạch ghi nhận và thực hành thay đổi suy nghĩ, kiểm soát thể lý và cảm xúc bản thân, thay đổi tương tác với người khác, với cha mẹ hoặc con cái trong việc giải quyết xung đột”.

Như vậy, kết quả thực nghiệm một lần nữa khẳng định hiệu quả của việc áp dụng liệu pháp nhận thức hành vi làm việc với trẻ vị thành niên trong các vấn đề liên quan đến các sự kiện tạo nên cảm xúc giận dữ, tức giận và gây hấn của trẻ. Việc áp dụng liệu pháp nhận thức hành vi làm việc với thanh thiếu niên, với học sinh sinh viên, với các vấn đề liên quan đến tâm lý và sức khỏe tinh thần có tính khả thi cao. Tôi cho rằng chúng ta có thể áp dụng và vận dụng nó trong môi trường văn hóa Việt Nam và bản thân tôi cũng đã áp dụng trong công việc của mình như là một nhà tham vấn tâm lý dưới sự giám sát và hỗ trợ chuyên môn của những người có kinh nghiệm thực hành và chuyên môn sâu.

NHẬN DIỆN VẤN ĐỀ THEO CÁCH TIẾP CẬN HỆ THỐNG TRONG TRỊ LIỆU NHẬN THỨC HÀNH VI

Các yếu tố tác động đến sự hình thành và phát triển thái độ

Yếu tố di truyền sinh học, sự tương tác xã hội và sự tương tác giữa hai yếu tố trên là nền tảng cơ bản giúp hình thành và phát triển thái độ của chúng ta. Một khi một trong hai yếu tố này hoạt động một cách khác thường sẽ dẫn đến các bệnh về mặt thể lý hay các rối nhiễu về mặt thần kinh, não, tâm lý hoặc tinh thần.

Ellis đưa ra nhận định rằng: Có thể có một nền tảng di truyền sinh học ảnh hưởng mạnh mẽ đến các kiểu mẫu suy nghĩ của chúng ta. Vì thế đặc điểm sinh học có thể góp phần gây nên các khả năng rối nhiễu của tư duy và cũng đồng thời có thể giúp đỡ và tạo điều kiện để chống đỡ hoặc sửa chữa các kiểu tư duy có vấn đề này. Tôi hiểu rằng cơ cấu của tiếp cận trị liệu nhận thức hành vi dựa vào điểm mạnh này của yếu tố sinh học để giúp chữa trị và thay đổi những kiểu tư duy gây rối nhiễu.

Nhân tố thứ hai, sự tương tác xã hội. Con người chúng ta tương tác với người khác trong phạm vi gia đình, bạn bè, trong các nhóm đồng đẳng, trong phạm vi nhà trường, công việc, thể chế xã hội, tôn giáo… Trong quá trình tương tác này chúng ta xây dựng hình ảnh bản thân, sự nhận thức bản thân, giá trị của bản thân trong tương tác với người khác. Một khi sự tương tác này không suôn sẻ hay bị ảnh hưởng, nó có thể tác động đến sự nhìn nhận của cá nhân đó về việc xây dựng hình ảnh hay lòng tự trọng của chính họ, ví dụ như: Tôi là người không ra gì, bất tài, không giỏi giang, là đứa vứt đi…; cần chú ý rằng bản thân sự tương tác đó không gây ra vấn đề mà là chúng ta gán cho nó một ý nghĩa cụ thể nào đó thông qua “sự lý giải”. Ý nghĩa của sự vật là một sản phẩm xã hội, sản phẩm của hành động và tương tác cá nhân. Herber Blumer (1900-1987) cho rằng: Ý nghĩa của sự vật nảy sinh từ mối tương tác xã hội giữa các cá nhân, bản thân sự vật vốn không có nghĩa mà chính con người trong quá trình tương tác với nhau đã gán cho mỗi sự vật một ý nghĩa nhất định.

Theo quan điểm hiện đại có nhiều hơn 2 yếu tố tác động và ảnh hưởng đến tâm lý và sức khỏe tinh thần của chúng ta đó là yếu tố di truyền, yếu tố tâm lý trong quá trình phát triển và yếu tố môi trường. Khi thân chủ chia sẻ những vấn đề hiện tại của họ, chúng ta cần hiểu rằng: “Một vấn đề trong một lĩnh vực phản ảnh một vấn đề trong các vấn đề khác”, vì thế, cần nắm vững vấn đề trong một cơ cấu tổng thể, hệ thống của chính nó. Và “cơ chế xác định đầu ra cuối cùng đó là một tiến trình tư duy, trong đó tư duy xác định tính cách và hành vi của chúng ta”.

Lý thuyết A-B-C về thái độ

Tiến trình tư duy hay lý thuyết A-B-C bao gồm 3 yếu tố: A: Các sự kiện kích hoạt và hành vi; B: Niềm tin về các sự kiện gây kích hoạt; C: Hậu quả về mặt hành vi và cảm xúc.
A: Các sự kiện kích hoạt là những hoạt động hay sự kiện, tình huống xảy ra với một cá nhân gây bùng phát phản ứng trở lại sự kiện đó từ phía của cá nhân đó.
B: Là những niềm tin hay lý giải của chúng ta về sự kiện.
C: Hậu quả hành vi cảm xúc là một phản ứng về cảm xúc hoặc hành vi của chúng ta như là một phản ứng trở lại các điều kiện đã xảy ra.

Ví dụ: Một buổi trưa sau giờ học, Lan đang đi trên hành lang của trường, nhìn thấy Hoa đi qua Lan gật đầu và mỉm cười chào. Hoa vẫn im lặng như không để tâm tới và tiếp tục bước qua. Không nhận được phản hồi từ Hoa, Lan trở nên giận dữ, bực tức cho rằng Hoa khinh thường mình, Hoa là đứa con gái chảnh chọe. Từ đó về sau, Lan không thèm kết bạn với Hoa nữa, Lan chia sẻ những suy nghĩ của mình với những người bạn khác.
A: Khi Lan đi qua giảng đường mỉm cười chào và Hoa không phản ứng gì.
C: Bực tức, giận dữ, chia sẻ suy nghĩ của mình về Hoa với những người bạn khác.
B: Hoa khinh thường mình, Hoa chảnh chọe

Ở đây chúng ta thấy rằng bản thân của việc chào hỏi, mỉm cười và không có phản ứng trở lại của đối phương không gây sự tức giận cho Lan, mà chính việc lý giải tình huống đã gây nên cảm xúc khó chịu. Chính niềm tin rằng: “Việc mình chào người ta phải được đáp lại, còn một khi người ta không chào lại, là người ta khinh mình” đã gây bùng nổ hậu quả cảm xúc của Lan.

Câu hỏi đặt ra là có cách lý giải nào khác hay góc nhìn nào khác về việc Hoa không phản ứng gì trước cách chào hỏi của Lan hay không?

Trung một người bạn khác của Hoa cũng gặp và chào Hoa, Hoa vẫn không phản ứng gì, im lặng mắt nhìn xa xăm, bước đi lững thững.

Phản ứng của Trung: Hơi lo lắng, không biết chuyện gì xảy ra với Hoa, “Mọi bữa nó đâu có vậy đâu, hôm nay sao phản ứng kì vậy ta?”, Trung đi hỏi một vài đứa bạn và được bạn cho biết là Hoa vừa xem kết quả điểm thi học kỳ bị rớt một môn, bình thường Hoa là đứa học rất khá. Trung lo lắng về tình hình của bạn, chiều tối về nhà điện thoại và hỏi thăm, an ủi động viên bạn.

Ở đây chúng ta thấy rất rõ, bản thân sự kiện không gây ra hậu quả về mặt cảm xúc mà là cách thức chúng ta lý giải sự kiện đó. Trong cuộc sống và trong các mối quan hệ, nếu như chúng ta có những niềm tin hay cách lý giải sự kiện hợp lý sẽ giúp cho chúng ta phát triển nhân cách, một khi chúng ta có những cách tư duy không hợp lý sẽ gây khó khăn cho chính chúng ta trong việc phát triển bản thân và xây dựng mối tương tác với người khác.

Có mối tương quan lớn giữa xúc cảm và suy nghĩ, trong đó xúc cảm ảnh hưởng đến cách thức suy nghĩ và suy nghĩ cũng ảnh hưởng đến cách thức cảm nhận cảm xúc. Mối quan hệ giữa xúc cảm và suy nghĩ được tạo ra hàng ngày, hàng giờ trong cuộc sống thường nhật. Theo quan điểm về nhận thức thì có nhiều hơn một cách thức và quan điểm khi nhìn một sự vật hiện tượng. Điều này có nghĩa là bạn có lẽ không thể chọn sự việc, sự kiện nhưng bạn có thể chọn cách thức tương tác nào giúp bạn cảm thấy tốt hơn và hành động một cách hiệu quả hơn. Điều này có nghĩa là giữa suy nghĩ của bạn và cảm xúc của bạn có sự liên hệ với nhau và cách thức mà suy nghĩ và cảm xúc tương tác với nhau tạo nên cung bậc và màu sắc tâm trạng của bạn.

Mục tiêu của trị liệu

Chúng ta vừa nắm rõ các yếu tố giúp xây dựng và phát triển nhân cách của chúng ta, đồng thời chúng ta cũng tìm hiểu về các nguyên nhân gây rối nhiễu tinh thần. Trong mục này và các phần tiếp theo chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn về mục tiêu của trị liệu nhận thức hành vi cũng như cách thức áp dụng nó vào trong từng dạng rối nhiễu tinh thần cụ thể.

Dựa trên sự hiểu biết về phát triển nhân cách, các nguyên nhân và nguồn gốc gây nên các rối nhiễu tinh thần, áp dụng Trị liệu nhận thức hành vi hướng đến các mục tiêu sau đây:
– Mục tiêu đầu tiên: Giúp thân chủ nhận diện và thách thức với những niềm tin hay kiểu mẫu suy nghĩ không hợp lý và hướng dẫn thân chủ giải thoát khỏi sự ràng buộc hay hạn chế của kiểu suy nghĩ cũ, xây dựng các kiểu suy nghĩ mới phù hợp.
– Mục tiêu thứ hai: Kiểm tra cảm xúc do niềm tin phi lý gây nên.
– Mục tiêu thứ ba: Giúp thân chủ thay đổi những niềm tin do những suy nghĩ vô lý gây ra. Thông qua các kỹ thuật can thiệp và phòng ngừa, đặc biệt là vận dụng liệu pháp cảm xúc hành vi hợp lý thông qua mô hình điều trị ABCDE.
Việc tranh luận với những niềm tin không hợp lý, đưa ra cách thức can thiệp (D) giúp thân chủ nhìn ra được vấn đề thật sự của mình và tìm kiếm một hiệu ứng mới được xây dựng trong ý thức, xúc cảm và hành vi (E), hiệu ứng mới này sau đó sẽ tạo ra một cảm xúc khác trong cá nhân đó.
– Mục tiêu cuối cùng và dài hạn của liệu pháp đó là vượt qua được bệnh tật, trở về chính bản thân mình với sự thoải mái, tự tại, vị tha cho chính mình và cho người khác, bởi vì con người ai cũng có thể phải qua những sai lầm để có được niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống.

CÁC QUAN ĐIỂM TIẾP CẬN CỦA LIỆU PHÁP NHẬN THỨC HÀNH VI

Mỗi hướng tiếp cận trị liệu đều dựa trên những triết lý, giả thuyết cơ bản và những điểm chính yếu cần thiết làm nền tảng. Việc hiểu biết nguyên tắc, cách thức tiếp cận, biết nguyên nhân gây nên vấn đề của thân chủ và các triệu chứng của thân chủ giúp cho nhà tham vấn, nhà trị liệu xây dựng chiến lược, vạch ra hướng đi trong quá trình làm việc với thân chủ.

Loan, 19 tuổi, đến gặp nhà tham vấn khi đang học học kỳ thứ hai của đại học và được tham vấn trị liệu trong vòng 5 tháng, trong suốt giai đoạn học của mình, mỗi tuần một lần, mỗi lần một tiếng để làm việc cùng nhà tham vấn. Loan đến gặp nhà tham vấn với vấn đề về tình cảm, Loan vừa chia tay người yêu, Loan cảm nhận tâm trạng mình không vui, khí sắc buồn khổ, chán nản và thất vọng về bản thân, lo âu không biết cuộc sống rồi sẽ đi về đâu, có nhiều suy nghĩ tiêu cực về bản thân. Trong vòng 3 tháng liên tục Loan gặp nhiều khó khăn trong các hoạt động hàng ngày của mình như: học tập sa sút, không muốn đi ra ngoài, ngại khi phải bước chân đi đâu đó, khó khăn trong việc xây dựng mối quan hệ bạn bè, hay xung đột với mẹ, khó khăn trong việc xây dựng mối quan hệ với mẹ, khó khăn trong việc quản lý cảm xúc bản thân. Qua các test kiểm tra đánh giá về sức khỏe tinh thần, qua việc thu thập thông tin và qua tham khảo sổ tay hướng dẫn và chẩn đoán về các rối nhiễu tâm thần – DSM-IV, Loan được cho là bị trầm cảm lâm sàng ở mức trung bình, không có ý tưởng tự sát.

Mặc dù tham vấn và trị liệu phải được áp dụng một cách thích hợp cho từng cá nhân, cho từng vấn đề cụ thể. Thế nhưng dưới quan điểm tiếp cận nhận thức hành vi thì để làm việc với Loan về vấn đề của cô ấy, nhà tham vấn cần có một số hiểu biết nhất định về nguyên tắc cơ bản của quan điểm nền tảng, triết lý và cách tiếp cận của liệu pháp, cần hiểu rõ và nắm vững khi áp dụng trong làm việc với thân chủ.

Sáu hướng tiếp cận cơ bản

Có sáu hướng tiếp cận cơ bản mà trị liệu nhận thức hành vi nhấn mạnh:
Thứ nhất: Cách thức một cá nhân hiểu các sự kiện cuộc sống đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định cách thức anh ta/cô ta phản ứng với các sự kiện này.
Ngay từ ban đầu, nhà tham vấn, nhà trị liệu cần nhận diện những suy nghĩ hiện tại của thân chủ, những suy nghĩ gây nên cảm xúc buồn chán, cô đơn và những hành vi khó khăn mà thân chủ đang mắc phải; thứ hai cần nhận diện những yếu tố nào ảnh hưởng đến quan điểm của thân chủ; thứ ba là cần nhận ra những sự kiện gì đang xảy ra với thân chủ và cách thức thân chủ lý giải nó như thế nào.
Thứ hai: Thân chủ được xem như bị tiêu cực quá mức trong các niềm tin của họ và chịu đựng đau đớn từ việc sử dụng thông tin kém thích nghi trong quá trình xây dựng các chiến lược.
Ví dụ, với Loan việc chia tay người bạn trai là một mất mát quá lớn với cô, cô cho rằng anh không xứng đáng để cô yêu, hay sâu xa hơn cô tin rằng không có ai yêu cô thật lòng cả. Ở đây cho thấy rằng thân chủ bị tiêu cực quá mức trong các niềm tin của họ, nên họ sẽ gặp khó khăn trong việc tin tưởng người khác. Với vai trò nhà tham vấn hay nhà trị liệu, cần thể hiện sự quan tâm và chú ý tập trung vào điểm mạnh, điểm tích cực thông qua những phản hồi thông tin từ phía thân chủ vào mỗi cuối phiên tham vấn.
Thứ ba: Trị liệu nhận thức hành vi nhấn mạnh vào việc hợp tác và tham gia một cách chủ động vào từng phiên tham vấn.
Trị liệu CBT trực tiếp đưa ra những lời đề nghị, cách thức thảo luận và cả bài tập về nhà, khuyến khích thân chủ chủ động chia sẻ vấn đề mà họ quan tâm. Việc hoàn thành các bài tập về nhà hay thực hành ngoài phòng tham vấn thể hiện sự hợp tác và chủ động của thân chủ.
Thứ tư: Nhận thức hành vi tập trung vào việc giải quyết vấn đề, ngay từ đầu nhấn mạnh vào vấn đề hiện tại, tập trung vào việc giải quyết vấn đề và hậu quả hiện tại vì vậy cần thiết xây dựng mục tiêu, tìm kiếm nguyên nhân và hướng dẫn thân chủ nhận diện các niềm tin không hợp lý của họ bao gồm khuynh hướng của các tiến trình suy nghĩ tiêu cực; kiểm tra một cách hệ thống về tính chính xác của các niềm tin và các khuynh hướng này, khuyến khích thân chủ tham gia chuỗi thực nghiệm, trong đó hành vi hiện tại được thay đổi một cách hệ thống để kiểm tra tính chính xác của các niềm tin đó.
Thứ năm: Trị liệu nhận thức hành vi theo cách giáo dục tâm lý với mục tiêu hướng dẫn thân chủ trở thành “người dẫn đường” của chính họ, giúp phòng ngừa tái phát.
Thứ sáu: Các phiên tham vấn trị liệu trong nhận thức hành vi được thiết kế theo một cấu trúc cụ thể. Nó được xây dựng theo từng bước cụ thể như: Xác lập mục tiêu, nội dung hoạt động, kết thúc và lượng giá.

Các quan điểm nền tảng

Để áp dụng được tiếp cận trị liệu nhận thức hành vi chúng ta cần hiểu các triết lý và quan điểm nền tảng của nó. Theo Stephen (2004) có 5 điểm chính yếu đầu tiên nhất cần ghi nhận trong việc thực hành liệu pháp nhận thức hành vi:
– Thứ nhất: Luôn luôn có những cách nhìn hoặc quan điểm khác vì vậy cần chú ý đến nó.
– Thứ hai: Sự kiện không phải là nguyên nhân tác động đến cảm xúc của chúng ta.
– Thứ ba: Chúng ta tạo nên các đặc trưng về cách nhìn thế giới.
– Thứ tư: Đó là một con đường hai chiều.
– Thứ năm: Chúng ta là những nhà khoa học về trái tim.

Quan điểm thứ nhất: Luôn có những cách nhìn hoặc quan điểm khác

Trước hết các anh chị hãy nhìn bức tranh dưới đây. Đây là một thực nghiệm cổ điển trong tâm lý
học. Các anh chị hãy quan sát bức tranh và cho tôi biết các anh chị nhìn thấy gì? (tranh minh hoạ hình/ nền về cô gái và bà già bài Tri giác)

Có lẽ trong số quý độc giả ở đây sẽ nhìn thấy bức ảnh một cô gái đang mặc áo choàng lông với một dây chuyền trên cổ áo, với một chiếc mũ lông công được gắn trên đầu, đầu quay ra một nơi khác, số khác trong quý độc giả có thể nhìn ra đây là một cụ già với cái mũi to, quặp xuống, đầu đang rút vào chiếc áo choàng lông.

Quý độc giả hãy tiếp tục nhìn nó và hãy cho những người khác tiếp tục quan sát, hãy để cho trí tưởng tượng của quý vị được bay bổng để có thể có một góc nhìn nào đó khác hơn nữa về chính bức tranh này.

Sau đó tiếp tục trả lời câu hỏi: Điều này có ý nghĩa gì với anh chị? Cùng quan sát một bức tranh nhưng đứng dưới góc nhìn khác nhau, kinh nghiệm sống khác nhau, chúng ta có thể đưa ra những quan điểm khác nhau và cách lý giải khác nhau về cùng một hiện tượng.

Trị liệu CBT cho rằng cùng một tiến trình giống nhau tạo nên một trong những cách thức chúng ta trải nghiệm với nhiều diện mạo trong cuộc sống hàng ngày của chính chúng ta. Có những thói quen trong suy nghĩ đã được định hình từ trong não bộ của chúng ta, vì vậy chúng ta nhìn thế giới theo cách thức mà nó đã được xây dựng, từ đó nó hướng cho ta cách thức lý giải sự kiện xảy ra.

Tôi xin kể lại một đoạn phim trong bộ phim “Đến thượng đế cũng phải cười” của đạo diễn Jamie Uys, sản xuất năm 1980 nói về bộ tộc Sho sống trên vùng sa mạc Ka-la-ha-ri. Họ sống biệt lập, chưa bao giờ biết đến thế giới văn minh, cả đời chưa từng thấy một tảng đá hay một viên đá cuội, họ sống an phận, hiền hòa và hòa hợp với thiên nhiên hoang dã. Gần đây, có nhiều tiếng ồn của những con chim khổng lồ bay ngang qua làng mà không bao giờ vỗ cánh. Một hôm có một vật lạ từ trên trời rơi xuống, một người đàn ông trong làng nhìn thấy nó và thắc mắc không biết đó là vật gì mà lại trong như nước nhưng rắn chắc hơn bất kỳ vật gì mà ông đã từng biết, ông thắc mắc vì sao thần linh, thượng đế lại gởi vật lạ nhất và đẹp nhất xuống? Vì lý do gì thần linh gởi vật này cho họ? Thật ra, đó chỉ là một vỏ chai. Cả làng ngồi xung quanh chai nước nghiên cứu suy ngẫm và đưa ra nhiều giả thiết khác nhau, rồi họ làm quen với vỏ chai như đưa ngón tay vào chai và bị kẹt, điều này làm cho tụi trẻ con trong làng không khỏi bật cười thích thú, họ thổi phát ra tiếng kêu, dùng nó để làm vệ sinh, hay là vật để cà da rắn làm thành những chiếc túi xinh xắn… Sự việc tiếp tục diễn ra như vậy và sau đó xuất hiện sự tranh giành và đánh nhau, tạo nên một sự xung đột lớn ở trong bộ tộc. Người đàn ông tên Xi trong bộ tộc phải họp cả làng lại và ông cho rằng, đây là một vật lạ từ trên trời rớt xuống, nó mang niềm vui cho làng nhưng đồng thời nó cũng mang những xui xẻo cho làng, có thể cái này đã bị quỷ ám, hay do sai sót nào đó của thượng đế đã gây nên sự mất đoàn kết trong làng mà từ trước đến nay chưa xảy ra. Để tránh tình trạng xung đột này tiếp diễn, Xi cần phải hủy nó hoặc mang nó đi trả lại hoặc vứt ở đâu đó để loại bỏ mối hiểm họa cho làng. Cuộc hành trình của ông thật dài, tới “tận cùng trái đất” để vứt bỏ cái chai đi, cho đến khi ông đến một nơi hoang vắng thảy bỏ được, ông thở phào nhẹ nhõm và cất bước trở về nhà. Cách hoang mạc Ka-la-ha-ri về phía nam sáu trăm dặm đó là thế giới hiện đại văn minh, nơi con người chế tạo ra nhiều thứ phục vụ cho đời sống và người ta gọi “vật thể lạ” đó là vỏ chai nước ngọt Coca Cola được làm bằng thủy tinh.

Như nhà triết học Hy Lạp Epictetus đã nói: “Con người không bị ảnh hưởng bởi những thứ bên ngoài, nhưng bởi chính quan điểm mà họ đặt lên nó”. Câu chuyện trên cho ta thấy rằng thói quen suy nghĩ của bộ tộc là những cái gì từ trên cao, trên trời rơi xuống là những vật của thần thánh, của trời, của thần linh ban cho họ, nếu nó gây sự bất ổn trong cộng đồng thì có thể nó bị quỷ ám cần tiêu diệt nó hoặc tránh xa nó ra. Đó là nếp nghĩ của người dân bộ tộc đó, còn chúng ta, những người sống trong thế giới hiện đại, chúng ta nhìn thấy, cầm nắm, sử dụng hằng ngày các chai nước, chúng ta biết được công dụng của nó, biết nó để làm gì, khi chúng ta vứt nó đi một số người khác có thể thu gom và đem tái chế… mà không nghĩ ngợi nó bị ma ám, hay nó là một vật linh thiêng nào đó từ trời đem xuống, điều đó phần nào cho ta thấy luôn có một cách nhìn, quan điểm khác về một sự kiện hoặc hiện tượng nào đó xảy ra.

Quan điểm thứ hai: Sự kiện không phải là nguyên nhân tác động đến cảm xúc

Trong cuộc sống hằng ngày có nhiều sự kiện xảy ra đối với chúng ta, như quên chìa khóa xe, chìa khóa phòng, đi đến rạp chiếu phim thì hết vé, đi xe máy hết xăng dọc đường… cãi nhau với bạn, với ba mẹ, thi rớt đại học, điểm thấp môn học nào đó… bạn sẽ có những cảm xúc như: lo lắng, căng thẳng, u sầu, giận dữ, buồn, cô đơn… Chúng ta thường hay nghe những câu nói trong các xung đột hay các mâu thuẫn xảy ra giữa vợ chồng như “Tại anh làm tôi buồn” hay bạn bè “Mày hù tao sợ”, những thành viên trong gia đình, bố mẹ hay nói “Đừng làm cho bố mẹ thất vọng nghen” khi mong đợi ở con cái một điều gì đó. Hay từ những sự kiện rất nhỏ khác trong cuộc sống như chồng đi làm về muộn, vợ nói: “Anh có biết anh làm như vậy là tổn thương tôi không”, hay học sinh thi rớt một môn học mẹ lại nói: “Mẹ buồn lắm con biết không”, theo lý giải thông thường chúng ta cho rằng chính những sự kiện xảy ra như vậy tác động đến cảm xúc của chúng ta.

Hãy ngừng ở đây để thảo luận lại một chút, nếu như sự việc xảy ra tác động đến cảm xúc của chúng ta thì thử hỏi làm thế nào để chúng ta có thể giải thích rằng trong thực tế có những người có những phản ứng khác nhau trong cùng một sự kiện tương tự nhau? Tại sao có người khi đến rạp chiếu phim hết vé xem phim cảm thấy thất vọng với bản thân, buồn tủi nhưng cũng lại có người thì bàng quan hơn, bình tĩnh hơn, họ cho rằng phim hay, mình đến muộn nên hết vé, lần sau đến sớm hơn. Hay việc bỏ quên chìa khóa có người cảm thấy bất hạnh trong khi đó chỉ là một sự bất tiện nhỏ mà sau đó chúng ta có thể quên ngay lập tức.

Dựa trên các giả định của Beck, ông cho rằng tự thân các sự kiện không chịu trách nhiệm chính về cảm xúc của chúng ta mà là do cách diễn giải của chúng ta dựa trên sự kiện đó và cách thức chúng ta phản ứng trở lại đối với sự tác động của chúng trên tâm trạng của chúng ta. Đây chính là nền tảng chính của hướng tiếp cận nhận thức hành vi.

Một sự việc nào đó xảy ra đối với chúng ta mà nói, chúng đều có ý nghĩa và cách thức chúng ta lý giải nó rất quan trọng. Khi chúng ta nhận ra được tầm quan trọng ý nghĩa của sự việc có liên quan đến chúng ta, chúng ta sẽ nhanh chóng lý giải chúng theo nhiều cách thức khác nhau, và điều này sẽ cho ra những kết quả cảm xúc khác nhau.

Theo cách hiểu thông thường
Sự kiện => Phản ứng trở lại
Đến rạp chiếu phim hết vé -> Cảm thấy khó chịu, buồn
Tuy nhiên theo tiến trình nhận thức hành vi thì:
Sự kiện => Ý nghĩa hoặc lý giải => Phản ứng
Đến rạp chiếu phim hết vé -> Tôi là đứa xui xẻo -> cảm thấy buồn, căng thẳng, nản lòng.

Quan điểm thứ ba: Chúng ta tạo nên các cách đặc trưng về cách nhìn thế giới

Mặc dù có một số cách nhìn về sự kiện cho ta cảm xúc tốt hơn những cách nhìn khác, một điều chắc chắn rằng người ta không sử dụng nhiều lựa chọn về cách thức mà họ nhìn nhận tình huống hoặc họ phản ứng một cách đầy xúc cảm như thế nào. Nhiều suy nghĩ, tư duy đau khổ xem như bất thình lình xuất hiện một cách tự động trong đầu chúng ta, hầu như tất cả phản ứng của chúng ta mang tính bản năng.

Nhà trị liệu hành vi cũng có quan điểm này. Trong thực tế Beck đã đặt ra thuật ngữ “Những suy nghĩ tự động tiêu cực” để nhấn mạnh rằng nhiều suy nghĩ chịu trách nhiệm cho việc tạo ra những cảm xúc không mong đợi của chính chúng ta là không có chủ ý. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chúng ta không thể huấn luyện lại cách thức mà chúng ta suy nghĩ. Mục tiêu của trị liệu CBT là giúp chúng ta nhận diện ra nó, giúp chúng ta “thay đổi tư duy” bằng cách không học những cách thức suy nghĩ mang đến cho chúng ta những cảm xúc không mong đợi đó nữa.

Câu hỏi đặt ra là làm thế nào mà dạng suy nghĩ như thế được thiết lập, phát triển và trở nên cực đoan đến vậy? Trị liệu CBT cho rằng có hai tiến trình kiến tạo cơ bản – thứ nhất đó là tiến trình hành động từ bên ngoài vào trong và một tiến trình bổ sung hành động từ bên trong ra bên ngoài. Vậy thì kinh nghiệm tạo nên niềm tin của chúng ta đi từ bên ngoài vào trong như thế nào? Các niềm tin tạo nên quan điểm của chúng ta từ bên trong ra bên ngoài như thế nào? (Sẽ thảo luận trong: Hệ thống các niềm tin cốt lõi).

Quan điểm thứ tư: Nó là con đường hai chiều

Trong cuộc sống chúng ta, những sự kiện xảy ra được xem xét như là một con đường hai chiều. Cùng trên một tuyến đường nhưng nó có hai hướng đi, bạn có thể chọn lựa đi theo hướng bên này hay là hướng bên kia. Trong suy nghĩ tự động cũng vậy, chúng ta có thể cho nó tiếp tục quay theo chiều tiêu cực hay trở lại chiều tích cực.

Điểm nhấn mạnh thứ năm: Tất cả chúng ta là những nhà khoa học trái tim

Tôi hiểu rằng không ít thì nhiều chúng ta thường là người có khả năng chữa lành những vết thương lòng cho chúng ta và cho người khác, chúng ta là người xây dựng nên những lý thuyết về bản thân chúng ta và tìm kiếm những cách thức riêng để chứng minh nó.

Chuyện kể rằng: Có một người phụ nữ khó khăn lắm mới sinh được một đứa con trai, khi con bà được ít tuổi cháu bị bệnh và mất đi, người mẹ trẻ rất buồn phiền, đau khổ, khóc ròng rã rất nhiều ngày đêm, bà không cho bất kỳ ai chạm vào con mình, không cho hỏa táng hay mai táng cháu. Bà cho rằng thượng đế bất công với bà, độc ác với bà, tại sao nỡ lòng nào cướp đi đứa con yêu quý của bà, không ai có quyền được cướp con của bà đi, bà cố gắng tìm mọi cách để con mình được sống lại. Một ngày nọ, Đức Phật đi qua, bà van xin đức phật hãy cứu sống con bà, bà không thể nào để nó ra đi như vậy. Rất thông cảm với nỗi đau của người phụ nữ trẻ, Đức Phật nói với bà: Tôi có thể cứu sống con của bà, để cứu sống được cháu tôi cần sự hợp tác và nỗ lực của bà. Người mẹ trẻ mừng rỡ: dù bất kỳ giá nào, khổ cực như thế nào bà cũng chịu để có thể cứu được con bà, bà sẽ làm tất cả vì con.

Đức Phật nói rằng: Việc bà cần làm là với hai cái bát trong tay bà hãy đi đến từng nhà người dân một, đến đó bà xin một hạt muối và một hạt gạo khi nào đầy hai bát thì bà hãy mang về đây, ta sẽ làm phép cho con bà.

Người mẹ trẻ sầu khổ đi đến từng nhà dân để xin muối và gạo, đến mỗi nhà bà đều được tiếp đón, được an ủi, hỏi thăm và chia sẻ của những người đồng cảnh hay của cả những người bất hạnh. Một ngày nọ bà mang đủ hai bát gạo và muối trở về gặp Đức Phật và nói: Con hiểu rồi, con trai của con vẫn sống mãi trong lòng của con, bây giờ con có thể để cho thân thể cháu được hỏa táng để cát bụi có thể trở về với cát bụi.

Việc được chia sẻ, nhận được sự quan tâm, thấu hiểu của người khác giúp nhiều cho chúng ta, những con người cần biết mấy sự quan tâm chăm sóc, sự tử tế, ấm áp và khoan dung, nó kích thích lòng trắc ẩn trong mỗi chúng ta, giúp cho chúng ta cảm nhận được sự an toàn và yêu thương… Việc tự mình tìm và lý giải được những giả thuyết hay trả lời cho câu hỏi của bản thân là kết quả của một quá trình đấu tranh nội tâm lâu dài để thay đổi hay tiếp nhận nó.

HỆ THỐNG CÁC NIỀM TIN CỐT LÕI

Trị liệu nhận thức hành vi tập trung vào việc cải thiện tâm trạng và hành vi của thân chủ, làm việc trên các mức độ nhận thức sâu của thân chủ, đó chính là niềm tin. Niềm tin về bản thân, về thế giới xung quanh, những người chung quanh họ, hiểu biết về những điều kiện xây dựng nên niềm tin.

Niềm tin của chúng ta được tạo ra là chính kinh nghiệm chúng ta, khi đã có niềm tin chúng ta chọn lọc những gì phù hợp với niềm tin của chúng ta và chối bỏ những gì không phù hợp. Bằng cách sửa đổi các niềm tin tiêu cực, các niềm tin đã được khái quát hóa không phù hợp, giúp chúng ta nhìn nhận sự việc một cách thực tế hơn về những điểm mạnh và điểm hạn chế của chúng ta, giúp điều chỉnh cách nhìn nhận của chúng ta về các tình huống cụ thể mà chúng ta gặp hàng ngày. Chúng ta sẽ thảo luận sâu hơn về cách thức mà kinh nghiệm tạo nên niềm tin, cách thức mà nó đi từ bên ngoài vào bên trong như thế nào và làm thế nào mà niềm tin của chúng ta lại có thể chọn lọc thông tin phù hợp với nó.

Cách thức kinh nghiệm tạo nên niềm tin

Pavlov đã thí nghiệm gây bệnh tâm căn trên động vật, ông lý giải rằng rối loạn tâm căn là hậu quả của việc quá căng thẳng trong quá trình hưng phấn hay ức chế hoặc di chuyển quá mức giữa hai quá trình đó do những tác nhân kích thích từ bên ngoài.

Theo học thuyết về tập nhiễm xã hội, đặc biệt là điều kiện hóa thực thi của Skinner: Sự lựa chọn đáp ứng nhờ vào sự củng cố. Dựa trên lý thuyết này nhiều tác giả trong đó có Masserman và Wolpe đã tiến hành các nghiên cứu tâm căn thực nghiệm. Trong thực nghiệm về Khử điều kiện ức chế Wolpe (1952) đã sử dụng mèo để làm thí nghiệm:

Dùng một chuồng hẹp để nhốt mèo cho đến khi mèo quen với chuồng, dùng kích thích điện trong vòng hai giây (dòng điện vô hại) đã gây cho mèo hiện tượng lo âu với nhiều triệu chứng thần kinh thực vật. Hiện tượng này biến mất khi ngừng kích thích. Tiến hành lặp đi lặp lại nhiều lần tạo nên phản ứng sợ hãi với cường độ tăng dần. Sau khi ngưng kích thích điện, đặt mèo vào bất cứ chuồng nào mèo cũng vẫn phản ứng sợ hãi (cơ chế khái quát hóa kích thích ban đầu). Sự sợ hãi đã ức chế khả năng thích nghi của mèo. Để mèo đói trong vòng 24 tiếng, khi đặt thức ăn vào chuồng mèo vẫn không ăn.

Thuyết hành vi đã sớm nhấn mạnh rằng cách thức bộ não thiết lập mối liên hệ dựa trên sự phản ứng với môi trường tác động vào tạo nên tâm lý hay các rối loạn tâm căn. Pavlov cũng cho rằng có mối liên quan giữa các bệnh tâm căn với loại hình thần kinh hay loại nhân cách như: tâm căn suy nhược tương ứng với loại hình thần kinh trung gian, tâm căn hysterial tương ứng với loại hình thần kinh nghệ sĩ, tâm căn suy nhược tâm thần tương ứng với loại hình thần kinh lý trí.

Có nhiều hơn việc tương tác của kích thích và phản ứng: Nó liên quan đến cách thức chúng ta phản ảnh và cách thức chúng ta khái quát hóa vấn đề như thế nào. Chúng ta luôn khái quát hóa vấn đề từ chính kinh nghiệm theo cách có ích là cho phép chúng ta dự đoán những gì có thể sắp xảy ra.

Việc học hỏi theo cảm xúc cũng tương tự như vậy, một đứa trẻ bị bỏ rơi hoặc bị lạm dụng có lẽ phát sinh ra các lý thuyết khái quát hóa một cách bản năng hoặc thậm chí đưa ra kết luận khó khăn và chắc chắn về bản thân và thế giới xung quanh nó. Ví dụ: “Em bị cư xử như vậy bởi vì em là đứa tồi tệ”, hay “Đừng chơi với tôi, vì tôi là đứa luôn mang xui xẻo đến cho mọi người” hoặc “Có thể anh ấy sẽ bỏ rơi em như những người khác”. Từ những kinh nghiệm thời thơ ấu từ những gì đã xảy ra với mình mà các em đã dẫn đến việc cho rằng: “Mình là đứa tồi tệ”, “mình luôn mang xui xẻo cho người khác” hay đã tạo nên niềm tin rằng mình có thể sẽ bị bỏ rơi.

Trường hợp An: “Có thể anh ấy sẽ bỏ rơi em như những người khác”.
Khi em còn nhỏ ba là người hay đưa em đến trường, có lần ba đưa em đi, ba quên đón em, em chờ mãi chờ mãi không thấy ba đâu, sau đó em đi bộ về nhà. Về tới nhà ba mẹ lại cãi nhau vì em, sau đó ba giao hẳn công việc đón em cho mẹ, mẹ có lúc nhớ đón em, có lúc lại quên do bận việc, em lại thui thủi đi bộ về, nhà rất xa em không dám hỏi hay điện thoại xe ôm vì em không biết có chuyện gì, ngộ nhỡ có chuyện gì thì ba mẹ em lại cãi nhau. Năm em 13 tuổi, em có cảm tình với thầy giáo, thầy hẹn với em, bảo em đợi thầy ở bến xe buýt, thầy sẽ ra gặp em, nói chuyện với em, em đợi mãi, đợi mãi nhưng không thấy thầy đâu, nhiều chuyến xe buýt chạy qua em cũng không thấy bóng dáng của thầy. Em đợi thầy đến chiều tối rồi lê bước về nhà. Giờ đây em quen anh ấy, em rất mong anh, mong anh nếu có đi công tác hay đi đâu xa thì nhắn tin cho em, điện thoại cho em. Đã gần hai tuần nay rồi em nhắn tin cho anh không được, anh cũng không email cho em, mặc dù biết là anh đi công tác xa, khi về anh sẽ nhắn cho em, nhưng sao em thấy hoang mang lo lắng quá! Có khi nào anh sẽ bỏ rơi em như những người khác không?
Ba mẹ, thầy cô là những người rất gần gũi với An, những người quan trọng và là người chăm sóc khi còn thơ bé. Từ những trải nghiệm của việc ba quên không đón, mẹ quên không đón, thầy hẹn rồi thất hứa, đã làm cho em tin rằng những ngưới thân của mình “bỏ rơi mình”. Đến khi đã trưởng thành, đã có hiểu biết nhưng niềm tin đó vẫn mạnh mẽ và tồn tại trong em, chỉ cần có sự kiện xúc tác thì niềm tin đó sẽ bùng nổ ra.

Trường hợp Bình: “Đàn ông không đáng tin”.
Em và H là đôi bạn rãt thân, thân nhau từ năm cấp 2 rồi trở thành người yêu của nhau vào cuối năm cấp 3, vào đại học tình cảm trở nên nhạt dần, em có cảm giác như rồi H sẽ có một người yêu khác. Tại sao vậy? Đã có người yêu khác rồi sao cứ dính đến em, em biết bạn có người con gái khác nhưng lại dấu em, nhưng bạn bè của em đã cho em biết điều đó. Chị biết không tình cảm của hai đứa không còn như xưa nữa, bạn lạnh nhạt như thế nào đó, em có phản ứng gì thì phản ứng, còn bạn thì cứ im lặng.
Em tức lắm! Đàn ông là vậy sao? Bạn em nói đàn ông không đáng tin, ba em, bỏ mẹ em đi từ khi em còn nhỏ, mẹ em ở vậy nuôi em tới bây giờ, mẹ cũng không dám đi bước nữa vì mẹ sợ em khổ, sao khi yêu người ta có thể nói lời ngon ngọt, hứa hẹn đủ thứ rồi lại quen người khác, rồi nhẫn tâm bỏ đi hả chị?
Dựa trên kinh nghiệm đổ vỡ của mối tình đầu, kinh nghiệm của bạn gái và chứng kiến sự đau khổ của mẹ khi phải nuôi em một mình, Bình đưa ra nhận định khái quát rằng: “Đàn ông không đáng tin”.

Trường hợp Cúc: “Đừng chơi với tôi, vì tôi là đứa luôn mang xui xẻo đến cho mọi người”.
Hôm qua em đi chơi với mấy đứa bạn, đi ra khỏi nhà thì trời đổ mưa, đi đến rạp hát A thì rạp A hết vé, đi đến Lotte thì cũng hết vé, em thấy mình là người xui xẻo, luôn mang đến chuyện xui cho mọi người, em buồn lắm, giá như không có em thì các bạn có thể may mắn hơn, mọi người sẽ không bị mất vui, có khi các bạn không chơi với em lại tốt hơn, em muốn nói với các bạn là: “Đừng chơi với tôi, vì tôi là đứa luôn mang xui xẻo đến cho mọi người”.
Từ chuyện không may mắn nào đó mà Cúc dẫn đến niềm tin và tuyên bố rằng em chính là nguyên nhân mang đến xui xẻo cho người khác, tuyên bố này làm hạn chế khả năng bản thân, cho rằng mình là người có lỗi mặc dù điều đó không liên quan gì đến Cúc.
Tôi muốn dừng lại ở đây để bàn một chút để có cái nhìn sâu hơn về nội tâm và những khó khăn cảm xúc mà Cúc đã trải qua. Điều gì làm cho em tin rằng: “Em là người mang đến sự xui xẻo cho người khác”? Điều gì làm cho em đỗ lỗi cho bản thân mình mặc dù những việc xảy ra có thể không liên quan gì đến em như việc em đi ra khỏi nhà thì trời mưa. Liệu trong thời gian đó em không đi ra khỏi nhà thì trời có mưa không? Liệu em không đi đến rạp hát A hay đến Lotte vào thời gian trên thì rạp hát A hay Lotte có hết vé không?
Vấn đề hiện tại mà Cúc chia sẻ ở trên là bề nổi của một tảng băng, còn phần chìm của nó chính là niềm tin: “Em không được mọi người đón nhận! Em không được mọi người chấp nhận và yêu thương em”. Mà một khi em không được mọi người đón nhận, không được mọi người yêu thương và chấp nhận bản thân em thì em sẽ đặt câu hỏi: “Tại sao vậy?” và câu trả lời như một sự tuyên bố chắc chắn mạnh mẽ từ Cúc, đó là:
– Mọi người không vui khi ở gần em
– Mà tại sao họ lại không vui?
– Tại vì em đem xui xẻo đến cho họ.
Những suy nghĩ và những lời tuyên bố này gây nên một hậu quả khó khăn về mặt cảm xúc mà Cúc phải chịu đựng, từ đó ảnh hưởng đến việc xây dựng mối quan hệ với những người xung quanh em và cho chính bản thân em.

Các tầng bậc của hệ thống niềm tin

Nhận thức hành vi rất quan tâm đến các tầng bậc của hệ thống niềm tin, nó rất quan trọng và là nguyên nhân cơ bản gây nên các rối nhiễu tâm lý hay sức khỏe tinh thần. Có 3 tầng bậc chính mà chúng ta cần quan tâm: Thứ nhất đó là những suy nghĩ tự động tiêu cực, thứ hai là những lý giải bất thường và thứ ba là niềm tin cốt lõi.

Suy nghĩ tự động tiêu cực

Chúng ta đã được giới thiệu sơ qua về suy nghĩ tự động tiêu cực, những suy nghĩ tiêu cực mà xuất phát một cách tự động bên trong tâm trí của chúng ta và ảnh hưởng đến các phản ứng cảm xúc lên các sự kiện khi tác động đến chúng ta (Tham khảo chương V). Có 3 dạng suy nghĩ tự động chính, dạng suy nghĩ liên quan đến cách nhìn hay quan điểm về bản thân, quan điểm về tương lai và quan điểm về thế giới sẽ được đề cập sâu hơn vào chương tiếp theo. Tuy nhiên các suy nghĩ tự động tiêu cực thường gắn bó một cách khắng khít với các giả định lâu dài mà chúng ta đã xây dựng về chính bản thân chúng ta và về thế giới xung quanh ta. Các giả định này bắt đầu được hình thành từ thời niên thiếu khi chúng ta bắt đầu cố gắng lý giải một cách có ý nghĩa cho chính kinh nghiệm của chúng ta. Chúng tạo nên tập hợp mang tính cá nhân làm việc với các lý thuyết để lý giải về thực tế, nhưng chúng lại thường không được đặt trên một nền tảng vững chắc. Điều này xảy ra bởi vì khi còn là những đứa trẻ, chúng ta thường thiết lập các giả định dựa trên vốn kinh nghiệm sống ít ỏi và không có đủ bằng chứng thiết thực.

Ví dụ 1: “Em làm gì cũng thất bại hết”.
Hưng sinh viên đại học năm 2 chia sẻ: “Sao em làm gì cũng bị thất bại hết vậy cô? Em vừa biết mình rớt một môn học, mà cũng không phải rớt chỉ vừa đủ điểm trung bình thôi. Ba mẹ em không bao giờ vui với kết quả học tập của em hết. Ba mẹ em thất vọng về em nhiều quá, em thất bại quá, em là đứa không ra gì phải không cô? Từ nhỏ em đã cảm nhận như vậy rồi, em đạt điểm 9 ba mẹ cũng không vui ba mẹ cứ đi so sánh em với người khác như: Có điểm 9 mà khoe, mày xem thằng T kìa, có thể chào hỏi người ta bằng tiếng Anh, thằng L con bà B là học sinh giỏi huyện. Bà H nói con Hằng sắp đi du học rồi, mày liệu thân mà học đi con… Riết rồi em không còn nói chuyện được gì với ba mẹ nữa, em thấy cô đơn trong chính căn nhà của mình quá”.

Ví dụ 2: “Em thấy mình vô dụng quá”.
Tính, sinh viên năm 2: “Chị biết không, điểm số của em rất cao nhưng sao em thấy mình không vui vẻ, không thoải mái như các bạn khác, có thể tự do vui đùa, muốn học thì học muốn chơi thì chơi, từng tuổi này rồi, mà sao vẫn cứ ăn bám vào ba mẹ, vẫn chưa làm được tích sự gì cả, em thấy mình vô dụng quá. Nhưng nếu em đi làm thì sẽ ảnh hưởng đến việc học nhưng cứ đi học như vậy hoài em thấy buồn quá, vô nghĩa quá, mà không học thì không được”.

Tôi xin dừng lại ở đây một chút để có cái nhìn thấu đáo hơn vào bên trong nội tâm của các em. Các mô hình nội tâm bên trong chúng ta thường rất dễ bị ảnh hưởng bởi những tác động từ những người khác, đặc biệt là ba mẹ hay những người chăm sóc, nuôi dưỡng chúng ta. Nếu trong thời niên thiếu, bạn được cho là một đứa có năng lực, dễ thương, bạn sẽ lớn lên với cách nhìn về bản thân theo cách thức đó. Nếu bạn được cho là đứa “ngu đần” không làm nên được trò trống gì cả, bạn sẽ không bao giờ có giá trị với bất cứ thứ gì. Những câu tuyên bố như trên sẽ là chất liệu màu sắc tạo nên các giả định về chính bản thân bạn và dẫn đến việc bạn hướng tới xây dựng các kiểu mẫu suy nghĩ và cảm xúc tiêu cực. Tuy nhiên một khi bạn lớn lên bạn sẽ là người chịu trách nhiệm với chính những suy nghĩ tiêu cực của mình và tìm hướng giải quyết và vượt qua các hậu quả mà nó mang lại cho bạn.

Trong thực tế công việc, tôi tiếp xúc nhiều đứa trẻ có cảm giác tự ti do gặp nhiều vấn đề liên quan đến sự tự tin, sự tự tôn và lòng thương yêu bản thân, trong vấn đề này hầu hết đều liên quan đến ba mẹ hoặc những người chăm sóc và giáo dục chúng. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường nghe những câu mắng chửi hay răn dạy của ba mẹ đối với con cái khi chúng làm sai một điều gì đó, có những câu nói mang đến sự xúc phạm rất lớn đến giá trị của trẻ: “Mày ngu quá mà, lớn lên bốc “c” mà ăn nhen con”, “Mày là đứa không nên thân, lớn lên chỉ có ăn cướp”, hay những tuyên bố “Mày làm tao thất vọng quá, mất mặt với mọi người”, hay những câu nói mang tính cảm xúc: “Con làm như vậy là mẹ không yêu đâu”, “Tại mày mà tao khổ”… Trên đây chỉ là một vài dẫn chứng mà quý độc giả là phụ huynh có thể chú ý điều chỉnh nếu như quý vị đang ở trong trường hợp tương tự như trên.

Để giúp trẻ phát triển khỏe mạnh về mặt tâm lý và phòng ngừa các rối nhiễu về mặt tinh thần trong lĩnh vực giáo dục chúng ta cần hết sức thận trong trong việc sử dụng ngôn ngữ giảng dạy cũng như những sự trách phạt cả từ phía gia đình và nhà trường. Trong trường hợp trẻ đang gặp khó khăn về mặt tâm lý, về các vấn đề liên quan đến lòng tự tin và các rối nhiễu tinh thần thì việc tham vấn và trị liệu cho trẻ là cần thiết. Áp dụng trị liệu nhận thức hành vi để hiểu về nguồn gốc sâu xa vấn đề của trẻ và từ đó có thể áp dụng để tham vấn, trị liệu giúp giải quyết vấn đề hiện tại của trẻ.

Lý giải bất thường

Trong Trị liệu CBT các giả thuyết mang tính cứng nhắc, thiển cận và đem đến hậu quả cuối cùng cho chúng ta là cảm xúc không hạnh phúc, buồn khổ thường được nhắc đến như là những giả thuyết bất thường, được thể hiện qua hình thức của các tuyên bố có điều kiện, ví dụ như: “Nếu tôi làm mọi việc một cách hoàn hảo tôi sẽ được yêu” hoặc mệnh lệnh đạo đức, ví dụ: “Tôi không bao giờ cho phép mình được bộc lộ cảm xúc giận dữ của tôi”, “Tôi nên luôn luôn đặt người khác lên trên bản thân” hay “Tôi phải đặt gia đình, người thân lên trên bản thân tôi”.

Ví dụ trường hợp của Hoa: “Tôi phải đặt gia đình, người thân lên trên bản thân tôi”.
Chị Hoa 45 tuổi chia sẻ: “Là phụ nữ chị xem, tôi đâu có dám ăn, dám mặc, cái gì cũng nhường cho chồng cho con, đầu tắt mặt tối hết làm việc ở cơ quan lại làm việc ở nhà, hết đưa con đi học rồi lại rước con về nhà quần quật như con trâu, đâu có ai hiểu cho tôi đâu, nhiều khi buồn hết sức, mệt hết sức, bạn bè tôi khuyên bảo thôi kệ nó, để cho cha con nó tự lo nhưng đâu có được chị, tôi phải đặt gia đình chồng con lên trên bản thân chứ, nếu mình không làm tròn trách nhiệm gia đình nói ra nói vào không hay, mà lương tâm tôi cũng không cho phép, sắp xếp dữ lắm mới đến gặp chị được”.

Ví dụ: Em bao giờ cũng muốn làm cho mọi người hài lòng hết, em không muốn mọi người ghét em. Sau mọi thứ em làm cho anh ấy, anh ấy phải yêu em chứ!
Thương, 21 tuổi chia sẻ: “Không hiểu sao em lại rất thích anh ấy, em thích tuýp người hoạt bát, vui vẻ, mới gặp anh đây thôi, làm việc chung nhóm với anh, em thấy mình thu hút bởi anh, dù lớn hơn nhưng anh học cùng lớp với em, em đã giúp anh ấy rất nhiều, làm bài tập giúp cho anh ấy, nộp bài cho anh ấy… Nhưng anh hay làm cho em khóc nhiều, anh hay nói “sốc” em, không quan tâm đến em, anh ấy phải hiểu là em thích anh chứ! Anh ấy nói là anh có người yêu rồi nhưng thật ra thì anh ấy vẫn chưa có ai nhưng sao anh ấy lại không yêu em, sau tất cả những gì em làm cho anh ấy, anh ấy phải yêu em chứ?”

Các giả thuyết bất thường này bày ra một tầng bậc kế tiếp bên dưới những suy nghĩ tự động tiêu cực và việc mang chúng ra nói trong quá trình tham vấn trị liệu có thể làm cho thân chủ giảm nhiều cảm xúc bị tổn thương để cho bản thân là chủ của các suy nghĩ tự động tiêu cực đang tuôn trào đó sẵn sàng bộc lộ và giải tỏa ra bên ngoài.

Giả thuyết bất thường (Trường hợp của Hoa): Chỉ khi nào tôi làm mọi việc một cách hoàn hảo thì tôi sẽ được yêu.
– Suy nghĩ tiêu cực có liên quan:
+ Tôi không bao giờ đủ tốt cho cô ấy.
+ Tết đến rồi, tôi phải tìm món quà phù hợp cho tất cả mọi người.
+ Chết rồi! Tôi làm vỡ cái ấm yêu quý của chồng rồi… thế nào chồng tôi cũng ghét tôi.

Giả thuyết bất thường (Trường hợp của Thương):
Em bao giờ cũng muốn làm cho mọi người hài lòng hết, em không muốn mọi người ghét em. Sau mọi thứ em làm cho anh ấy, anh ấy phải yêu em chứ.
– Suy nghĩ tự động có liên quan: Em nghĩ là em đã làm nhiều việc cho anh ấy rồi sao anh ấy vẫn không quan tâm đến em, bộ em đáng ghét lắm sao, trong mắt anh ấy em là một đứa con nít. Anh ấy châm chọc em, em làm nhiều như vậy vẫn chưa đủ cho anh ta sao.

Các niềm tin cốt lõi

Theo thời gian, các kinh nghiệm của chúng ta và các giả định dần dần từng bước ổn định tạo thành các niềm tin cốt lõi. Đây là một bộ các lời tuyên bố dựa trên lập trường cơ bản mà chúng ta đúc kết bằng trực giác từ việc học hỏi tích lũy của chính chúng ta.

Niềm tin cốt lõi: Là nền tảng các niềm tin ổn định về bản thân, các mối quan hệ, thế giới quan và tương lai của người đó.

Niềm tin cốt lõi khó nhận diện hơn những suy nghĩ tự động, nó ẩn giấu bên trong, chúng thường thể hiện qua hình thức kiến thức ngấm ngầm, chỉ có thể bộc lộ chính bản thân chúng trong hầu hết các giả định khái quát về bản thân chúng ta và thế giới bên trong chúng ta. Không phải niềm tin cốt lõi nào cũng gây nên vấn đề của chúng ta, chỉ có một số niềm tin cốt lõi mang tính hủy hoại mới ảnh hưởng đến tâm trí và sức khỏe chúng ta.

Dưới đây là một vài ví dụ về niềm tin cốt lõi mang tính hủy hoại
– Tôi không được yêu
– Tôi là một người tồi tệ
– Tôi là đứa thất bại
– Mọi người ai cũng chỉ lo cho bản thân họ
– Tôi không được phép nhận bất kỳ một điều tốt đẹp nào trong cuộc sống
– Không có thứ gì có ích cả
– Thế giới này là một nơi nguy hiểm
– Tôi là người vô dụng, không có ích lợi gì cho mọi người.

Theo Beck (1995), niềm tin cốt lõi là điểm căn bản, gốc rễ của mô hình về thế giới đang vận hành bên trong nội tâm chúng ta và chúng thường tồn tại rất vững nhưng vẫn có thể thay đổi được.

Nói tóm lại, các yếu tố từ bên ngoài, các chất liệu từ trong cuộc sống mà chúng ta đã trải nghiệm được, chúng ta mang vào bên trong và thiết lập một cách bền vững. Nó mang một ý nghĩa sau khi chúng ta học hỏi, chúng ta thiết kế nó và xây dựng nên chính mô hình bên trong chúng ta. Chúng ta chỉ có thể khám phá được nó thông qua việc khám phá các cung bậc của hệ thống niềm tin.

Cách thức các niềm tin tạo nên thái độ

Niềm tin tiêu cực

Chúng ta vừa thảo luận cách thức mà kinh nghiệm của chúng ta tạo nên đặc trưng về cách nhìn nhận thế giới nhưng trong Trị liệu CBT có thể cách thức chúng ta nhận có nhiều sức nặng hơn một kiểu mẫu được xây dựng, các giả thuyết và niềm tin của chính chúng ta cuối cùng có thể dẫn đến việc tạo ra mệnh lệnh làm nên bản chất hành vi tự nhiên của chúng ta.

“Chúng ta thường lọc những gì không khớp với niềm tin hiện có của chúng ta”.

Ví dụ: Một người đang ngồi trên máy vi tính đọc tin tức online, trên màn hình xuất hiện hai tựa tin tức nóng, một nói về trường hợp một thanh niên đâm chết hai vợ chồng, đứa trẻ và chặt tay em bé đã bị bắt, một tin khác nói về những anh hùng tay không bắt cướp ở Bình Dương. Cả hai chủ đề này đều gây sự chú ý đối với người đọc tuy nhiên A lướt nhanh qua thông tin về người hùng ở Bình Dương và đưa ra lời nhận xét “Tên này hám danh, làm vậy để lên báo nổi tiếng, rảnh quá đi lo chuyện thiên hạ”. A lướt qua thật nhanh thông tin đó, A tập trung hơn vào tin việc tên sát nhân, A cập nhật thông tin hàng ngày về đối tượng này và những thông tin có liên quan đến anh ta như: hoàn cảnh, tiểu sử gia đình anh ta… A đưa ra lời nhận xét: “Thế giới này loạn hết rồi, toàn là những kẻ dã tâm ác độc, vô nhân tính, cái xã hội này toàn là những tên vô dụng”.

Niềm tin tiêu cực về xã hội và cuộc sống đã ra lệnh cho A lọc bỏ những thông tin có liên quan đến người tốt, việc tốt mà chỉ tập trung chú ý vào việc tiêu cực và chi nhìn thấy khía cạnh tiêu cực của một sự kiện, việc này dẫn đến suy nghĩ khái quát hoá “thế giới này toàn là..hay “cái xã hội này toàn là…”.

Bác sĩ Tâm thần Aaron Temkin Beck (sinh năm 1921) được biết đến như một trong số những người khởi đầu và xây dựng Trị liệu nhận thức, ông được huấn luyện bài bản từ trường phái phân tâm học. Trong quá trình áp dụng trị liệu với thân chủ đang bị trầm cảm, ông phát hiện ra rằng, những thân chủ đó sau khi hết bệnh một thời gian thì lại tái phát. Qua tìm hiểu và tiếp tục nghiên cứu, ông nhận thấy những thân chủ bị trầm cảm, đau khổ và chịu đựng tổn thương nhiều là do những dạng tư duy, suy nghĩ tiêu cực gây ra, những suy nghĩ tiêu cực này được cho là tự động chạy trong đầu thân chủ mà thân chủ không hề ý thức về nó. Những dạng tư duy hay suy nghĩ tiêu cực đó là gì? Dưới đây là những kiểu mẫu tư duy hay suy nghĩ tiêu cực đặc trưng, tùy vào từng dạng rối nhiễu tinh thần cụ thể mà chúng đóng những vai trò nổi trội khác nhau.

Beck cho rằng tiến trình suy nghĩ hoạt động tương tự như hệ thống lọc. Đối với một số người, chế độ lọc, lựa chọn các suy nghĩ từ các niềm tin tạo nên và củng cố trầm cảm lâm sàng và gia tăng việc né trách giận dữ, ví dụ như: “Tôi không đáng được cư xử tốt, tôi là người vô dụng”. Từ đó phát triển thêm các kiểu mẫu nhận thức khác xung quanh tiến trình này và bao gồm những suy nghĩ như:
– Tôi không bao giờ giỏi giang trong bất kỳ lĩnh vực nào cả.
– Không có ai quan tâm đến tôi hết.
– Tôi không thể thành công trong bất kỳ lĩnh vực nào.
– Tốt hơn nên tránh tôi ra, bởi vì những gì tôi làm đều bị thất bại cả.

Trong quá trình làm việc của mình, khám phá một phần của tiến trình này đã thu hút sự chú ý của Beck, ông để ý đến kiểu suy nghĩ này, đây là kiểu suy nghĩ không phù hợp với thực tế của thân chủ. Thật ra, thân chủ không thất bại gì cả, nhưng vì do điều kiện hành vi chọn lọc này chỉ cho phép chọn lọc các lời phê bình, chỉ trích từ người khác, hay các trải nghiệm trong cuộc sống thực tế đã hỗ trợ cho các kiểu mẫu suy nghĩ tiêu cực này và cho phép nó đi vào tầng nhận thức trong khi những đánh giá và các thành công trong cuộc sống mà không phù hợp với các kiểu mẫu suy nghĩ tự động tiêu cực thì bị bỏ qua và tránh né.

Cơ chế phòng vệ

Cơ chế phòng vệ quá mạnh cũng làm cho thân chủ không để ý hay bác bỏ những gì nhà tham vấn nói. Ví dụ như thân chủ phản ứng với nhà tham vấn: “Chị nên tập trung vào vấn đề này nè, tôi nghĩ là chị nên nói câu này nè, phải làm cái này nè… thì mới làm cho em thoải mái được”.

Theo Beck, việc thân chủ không đếm xỉa đến những gì nhà trị liệu nói, thông qua các câu nhận xét như: “Anh chỉ nói cho đẹp vậy thôi, cho tử tế vậy thôi” hoặc “Dĩ nhiên rồi, anh có thể nói như vậy, anh là nhà trị liệu của tôi mà, nói sao không được”.

Cơ chế phòng vệ quá lớn và niềm tin cốt lõi quá sâu đã khiến thân chủ chối bỏ những lời khen ngợi, những lời động viên hoặc thậm chí chối bỏ cả những thành quả mà mình đạt được, như khi thân chủ vượt qua được trạng thái căng thẳng thì họ cho rằng mình vượt qua điều đó là do mình ngủ ngon, do thuốc, do may mắn chứ không phải do họ nhận diện được vấn đề hay do nỗ lực của bản thân. Dường như những lời khen tặng hay động viên chỉ làm cho họ thêm cảm thấy xấu hổ và tội lỗi bởi vì họ tin rằng mình không xứng đáng để có được điều đó.

Trường hợp của Thanh: Vừa tốt nghiệp đại học vào làm ở một công ty, trong số những ứng tuyển viên Thanh được cho là người khá nhất cả về năng lực chuyên môn lẫn thái độ. Thanh được nhận số lương lớn hơn số lương mà cô mong đợi nhưng nó đúng với vị trí mà nhà tuyển dụng đã đưa ra. Nhận được mấy tháng lương, Thanh không dám sử dụng, trong lòng luôn bất an, lo lắng và căng thẳng vì cho rằng mình không xứng đáng với mức lương đó, đặt câu hỏi tại sao mọi người lại giao mình làm ở vị trí như vậy, thà cứ đi làm công việc văn phòng như photocopy hay các việc lặt vặt khác. Khi được khen thưởng động viên, Thanh cảm thấy xấu hổ và ngại ngùng để chấp nhận lời khen của đồng nghiệp, như khi mặc một chiếc váy đẹp mọi người khen ngợi, Thanh cảm thấy xấu hổ và không tự tin để mặc nó.

Việc hiểu biết về cơ chế tự vệ, các niềm tin cốt lõi, sẽ giúp cho nhà tham vấn, trị liệu, hiểu được thân chủ, từ đó xây dựng mối tương tác và sử dụng công cụ phù hợp.

Trong Trị liệu nhận thức hành vi, bộ công cụ được nhà trị liệu sử dụng để thách thức lại với những niềm tin cốt lõi và những suy nghĩ tự động tiêu cực đó là bộ câu hỏi Socratess hay “Phương pháp Socratess”. Socratess (469-399 TCN) tin rằng con người ai cũng có khả năng giải quyết vấn đề của chính mình và nhiệm vụ của người thầy giáo là dùng câu hỏi để khơi gợi tiềm năng đó và hướng đến một cuộc sống tốt đẹp. Quý vị có thể tham khảo những tài liệu về nhà triết học nổi tiếng này để hiểu thêm về ông cũng như cách thức ông áp dụng câu hỏi. Một điều tôi rất thích ở ông là cách đặt câu hỏi, nó giúp cho tôi hiểu rằng: Khi đặt câu hỏi là bạn đang tìm kiếm câu trả lời hay câu hỏi chính bản thân nó cũng là câu trả lời thích đáng.

Danh sách các dạng tư duy tự động tiêu cực

1. Quan điểm trừu tượng hóa có chọn lọc
Một ví dụ về cách nhìn có chọn lọc là một người làm tốt một vài điều gì đó, nhưng luôn nghĩ là nó chưa đủ tốt, người đó tập trung vào một vài điều mà có thể được hoàn thành tốt hơn như là một minh chứng rằng hoạt động không tốt và tránh né những phần đã được hoàn thành rất tốt. Đây là kiểu mẫu cơ bản của chuyển ý thức. Khi một người tập trung vào việc chọn những chi tiết đặc biệt, bỏ qua hoặc không chú ý đến những chi tiết khác và khi kiểu nhìn có chọn lọc trở nên lặp đi lặp lại, việc chuyển ý thức xảy ra và trở thành kiểu mẫu tự điều chỉnh bản thân của chính nó. Với việc gia tăng áp lực, sự căng thẳng trên một người, cách nhìn có chọn lọc có thể trở nên khái quát hóa và lan tỏa trên những phần khác của cuộc sống của một cá nhân.

2. Kết luận độc đoán
Điều này liên quan đến kiểu mẫu đưa ra một kết luận hoặc một niềm tin mà không có bất kỳ bằng chứng thực tế nào để hỗ trợ cho kết luận đó cả.
Ví dụ, một người trở nên sợ làm bài kiểm tra, cô ta luôn luôn e ngại là mình sẽ làm việc tồi tệ và cảm thấy lo lắng, thậm chí cô ta đã chuẩn bị kỹ càng và không bao giờ đạt điểm kém trước đó. Thực tế, quá khứ không hỗ trợ cho lo lắng, nhưng việc sợ thất bại của cô ta là những gì mà ý thức tập trung vào.
Ví dụ: Trường hợp của Lan: “Sắp tới kỳ thi tuyển cho phần thực tập ở ngân hàng lớn ở thành phố, em sợ mình bị thất bại quá. Mấy hôm nay em mất ăn mất ngủ vì em nghĩ mình sẽ rớt, có khi nào em lại thất bại nữa không?”
Trong trường hợp trên thân chủ đã trải qua kinh nghiệm thi rớt, từ đó đưa ra kết luận rằng “em là người thất bại”. Thực tế, em là học sinh rất khá ở bậc phổ thông, em vào một trường đại học lớn với số điểm thi đậu cao, nhà không được khá giả gì nên tiền học của em đều do cô dì họ chu cấp cho. Ý thức được điều đó, em tập trung vào học nên em cũng đạt được kết quả tốt trong các môn học. Vấn đề em gặp phải và em nghĩ nó là nguyên nhân em sợ mình thất bại là: Em có mong muốn được nhận một học bổng ngắn hạn để đi sang Úc học tập và tìm hiểu văn hóa Úc trong vòng một tháng, em khát khao và kỳ vọng rất nhiều, để được nhận học bổng các em sẽ tham gia vào kỳ thi với nhiều đội, cuối cùng nhóm
Lan chỉ lọt được vào vòng hai mà không lọt vào vòng ba. “Nhóm của em tập hợp từ những người cực kỳ giỏi của các khoa, các bộ môn, em nghĩ với thực lực tốt như vậy… mình sẽ thành công không ngờ lại thất bại”. Kinh nghiệm thân chủ vừa trải qua không đủ bằng chứng để chứng minh mình là người thất bại nhưng chính nỗi lo sợ thất bại làm cho thân chủ lo lắng về kỳ thi tuyển thực tập ở ngân hàng.

3. Suy nghĩ phân đôi
“Nó trắng hoặc đen”, “Nó chiến thắng hoặc thất bại”, “Nó đúng hoặc sai”… Người có kiểu tư duy này có xu hướng nhìn sự việc theo hướng trắng hoặc đen, nghiêng hẳn về bên này hoặc là bên kia, tốt hoặc xấu. Họ có một kiểu suy nghĩ cứng nhắc và nó chỉ có thể là một cách này hoặc cách khác, không có vùng xám trong suy nghĩ thực tế của người đó. Thường chúng ta gặp kiểu diễn đạt này trong những nhận định mang tính thành kiến về một vấn đề hay một cá nhân nào đó. Ví dụ, những người nghĩ rằng tất cả phụ nữ đều cư xử quá tình cảm hoặc cho rằng tất cả đàn ông đều không đáng tin. Cũng có khi họ thể hiện tư duy theo kiểu “một là tất cả, hai là không có gì”, hoặc giả một người khi làm việc gì đó sai hay có lỗi thì lập tức họ quy cho là người xấu.

4. Suy nghĩ không hợp lý, tập trung nói về rủi ro
“Thế giới này sắp đến ngày tận thế”.
Người có dạng kiểu mẫu này thường tùy tiện tuyên bố rằng mọi chuyện sẽ xảy ra theo hướng tồi tệ. Một người với kiểu mẫu nhận thức này họ thường tập trung chú ý vào những điểm sai, điểm tiêu cực, sau đó phóng đại sự việc một cách quá mức theo kiểu “thế giới sắp đến ngày tận thế!”. Ví dụ, một người từ chối đi máy bay bởi vì họ đã từng đọc một bài báo về tai nạn máy bay. Một người từ chối ăn cơm bình dân vì họ đọc trên mạng có người chết vì ngộ độc thực phẩm do ăn cơm bình dân và cho rằng việc ăn cơm bình dân sẽ chết.
Ví dụ: Câu chuyện của hai công nhân: Sau buổi cơm, hai công nhân ngồi nói chuyện, họ than thở với nhau về tiền cơm, một người trong bọn họ chép miệng nói: Anh A: Chắc chết sớm quá, mọi thứ sao mà đắt đỏ, ăn bữa cơm bình dân hôm qua chỉ có 15 nghìn hôm nay đã lên 25 nghìn rồi, bão giá kiểu này chắc chết.
Anh B (Người thứ hai) nói: Nếu mày không ăn ngoài đó mày ăn trong này mày cũng chết vì trong này mắc hơn, nó tới 35-40 nghìn đồng lận, mà mày ăn ngoài đó đồ không đảm bảo an toàn, có nhiều hóa chất, thuốc trừ sâu ăn vào nhiễm độc mày cũng chết.
Anh A: Mày ăn cơm trong này ngon mà mày chạy xe ra ngoài đường xe đụng mày cũng chết. Nếu như có tiền mày nên tiết kiệm gởi ngân hàng đi để đảm bảo cuộc sống cho vợ con mày sau này nếu không mày chết thì sao?
Anh B: Gởi tiền vào ngân hàng, mày đâu có biết là có an toàn hay không nếu nó phá sản mày cũng chết.
Anh A: Thôi thì nếu có tiết kiệm được tiền mày mua vàng đi đào hố cất cho an toàn, ừ mà mua vàng bây giờ nếu như vàng rớt giá cũng chết, mà chôn vàng xuống đất cũng chết.
Anh B: Chết sao mà chết được mày, vàng cất là an toàn rồi.
Anh A: An toàn sao mà an toàn mày, lỡ nó chuyển đi nơi khác thì cũng chết?
Anh B: Sao mà vàng dịch chuyển được mày?
Anh A: Sao không được mày, ông tao nói ngày xưa cất vàng dưới cột nhà sau khi tìm lại không thấy vàng đâu, tìm mãi mới thấy ở chỗ khác mà cũng chỉ được có một ít, vàng là kim loại nên nó có thể bị trái đất hút, nó hút đi chỗ khác sao mày kiếm được, như vậy không chết mới lạ.
Anh B: ừ há, mà nếu như nó không dịch chuyển nó cũng có thể bị đào trộm, như vậy cũng chết.
Anh A: sắp chết tới nơi hết rồi.
Trong cuộc sống có thể gặp những kiểu suy nghĩ tương tự như thế này. Suy luận không hợp lý, hay tập trung nhiều vào rủi ro là dấu hiệu nhận biết một người lo âu. Nó phối hợp với tính bi quan yếm thế, với giả thuyết rằng trong bất kỳ tình huống nào thì kết quả đầu ra chỉ toàn là chuyện xấu hoặc chuyện gây căng thẳng ức chế, tồi tệ hơn là chuyện tốt.

5. Phóng đại và thu hẹp
Tiến trình này liên quan đến việc phóng đại một vấn đề lớn phải đối mặt và thu hẹp hoặc hạn chế khả năng thành công. Mẫu người này tự ép bản thân hay hạn chế bản thân, thậm chí trước khi họ cố gắng làm bất kỳ một điều gì đó. Chưa bắt tay vào làm đã đưa ra ngay nhận định rằng “mình thất bại”. Ví dụ, một vận động viên bóng đá, khi anh ta vào trận đấu anh tin rằng đội kia, hay đối phương không thể nào thất bại được, họ sẽ chiến thắng, tự bản thân anh ta đã thiết lập cho bản thân mình việc thất bại trước đội bạn, thậm chí trước khi trận đấu bắt đầu. Kiểu người này cũng có khi nói xấu hoặc phóng đại sự việc một cách quá mức.

6. Cá nhân hóa
“Đừng chơi với tôi, tôi là người luôn mang xui xẻo đến cho mọi người”.
Với kiểu mẫu này, một người tin rằng những gì xảy ra bên ngoài mình là do bản thân hay nhân cách của người đó trực tiếp gây ra. Người đó tự đổ lỗi cho bản thân họ về một vài điều mà họ không phải là người chịu trách nhiệm, hoặc họ đổ lỗi cho người khác, theo cách này họ bỏ sót hay không lưu ý rằng họ cũng có một phần trách nhiệm trong đó. Ví dụ tuyên bố “Đừng chơi với tôi, tôi là người luôn mang xui xẻo đến cho mọi người”.

7. Quá khái quát hóa
Điều này xảy ra khi một cá nhân chọn một tình huống hoặc một kinh nghiệm và chuyển kết quả đó vào những lĩnh vực không liên quan khác. Ví dụ, một người trong suốt tuổi vị thành niên bị bạn chọc ghẹo vì mặt bị mụn trứng cá, từ kinh nghiệm đó dẫn đến việc anh ta tin rằng mình là người xấu xí. Anh ta sau đó có lẽ vẫn mang nó vào thời kỳ trưởng thành và khái quát hóa, ngay cả khi căn bệnh trứng cá đó đã được chữa trị khỏi. Anh ta sẽ nghĩ rằng mọi người có lẽ sẽ nhìn anh như là một người xấu xí và không có người phụ nữ nào có thể tìm thấy bất kỳ điểm thú vị nào ở anh ta cả.

8. Đọc suy nghĩ
“Cô ta nghĩ tôi là đứa ngu xuẩn”.
Bằng cách đọc suy nghĩ, họ vội đưa ra kết luận hay đưa ra giả thuyết là mọi người cư xử một cách tiêu cực với họ trong khi không có bất cứ bằng chứng nào thể hiện điều đó. Ví dụ, khi một người A đi qua chào người B, người B không để ý và không trả lời. Người A vội đưa ra kết luận rằng: “Người đó khinh thường mình, hạ nhục mình” hay đọc suy nghĩ theo kiểu “Cô ta nghĩ tôi là đứa ngu xuẩn”, “Cô ta nghĩ tôi là đứa hư đốn…”

9. Dạng sàng lọc có chú ý
Là dạng tập trung chú ý vào điểm tiêu cực và né tránh những điểm tích cực thể hiện qua việc tự nhận xét bản thân hay nhận xét đánh giá một sự việc, một hoạt động nào đó. “Họ không tính đến” hoặc phản đối hiệu quả tích cực của một công việc họ đã hoàn thành.

10. Lý do cảm xúc
Đưa ra lý do cảm xúc từ đó gây cản trở bản thân, ví dụ: “Tôi sợ mình làm không được”, “Tôi sợ mình làm việc đó một cách ngu ngốc”, “Tôi lo rằng tôi không thể hoàn thành nó” hoặc “Tôi lo là tôi không thể làm việc đó vì vậy tôi bỏ cuộc”.

11. Các tuyên bố bắt buộc
Kiểu suy nghĩ này thể hiện qua việc ép buộc, chỉ trích bản thân hoặc người khác theo cách thức ép buộc, bằng cách sử dụng từ “phải/nên” hoặc “không phải/không nên”. Những từ “phải” và “nên” mang tính chất ép buộc, không thực tế, khắt khe, làm hạn chế, mang tính kế thừa gây nên một số khó khăn cho chính bản thân người thể hiện nó.
Ví dụ: Em ý thức được rằng em phải đi học, em phải làm bài, em phải đến trường, em phải làm cho cha mẹ hài lòng, em phải lo cho tương lai em, em phải tự lập. Em phải lập kế hoạch cho mình, em không được xem ti vi nhiều, không được chơi game nhiều, em phải đi xin việc để kiếm thêm thu nhập… Em ý thức được điều đó nhưng cuối cùng em đã không làm gì cả, mọi chuyện vẫn như cũ. Em muốn thay đổi nhưng sao em làm không được.

12. Tự dán nhãn
“Đó tất cả là lỗi của tôi”.
Có những người đánh giá và nhận diện bản thân về những thiếu sót. Ví dụ khi làm sai một điều gì đó, thay vì nói là: “Tôi có lỗi, tôi nhầm”, họ tự nói với bản thân họ là “Người dối trá”, “là thằng hề”, “thằng ngu xuẩn” hoặc “là thằng thất bại”.

THỰC HÀNH NHẬN DIỆN NHỮNG KIỂU SUY NGHĨ TỰ ĐỘNG

Mỗi ngày trong đầu chúng ta có khoảng 3000 đến 6000 suy nghĩ liên tục chạy, nó giống như một đầu đĩa hay một băng cassette được ghi lại, chỉ cần bật lên là nó quay, nếu như chúng ta không tắt hay không tua lại để xem chuyện gì xảy ra thì mỗi khi bật lại, nó cũng sẽ phát ra tương tự như vậy. Vậy làm thế nào để có thể nhận diện và phát hiện dòng suy nghĩ xảy ra trong đầu, những suy nghĩ nào nổi bật, chiếm ưu thế và tác động nhiều đến cảm xúc hành động của chúng ta. Dưới đây là một bài tập cần thiết để nhận diện chúng.

Bước 1: Nhận diện vấn đề hoặc tình huống: Sau một ngày, quý anh chị hãy ngồi lại cầm bút viết và miêu tả lại các sự kiện, các tình huống, trong đó, nó xảy ra khi nào, với ai và cái gì đã cho các anh chị có cảm xúc như không vui, buồn phiền, giận dữ… Lưu ý rằng trong một tình huống xảy ra có thể xuất hiện nhiều hơn một cảm xúc.
Bước 2: Quý anh chị ghi chép lại những suy nghĩ tự động nào mang tính tiêu cực đối với anh chị.
Anh chị cảm nhận như thế nào về tình huống đã làm cho anh chị phiền lòng? Hãy sử dụng các từ miêu tả cảm xúc như buồn, chán, giận, lo lắng, căng thẳng, xấu hổ, thất vọng; vô vọng, tuyệt vọng… Cho điểm mỗi cảm xúc tiêu cực đó theo thang điểm từ 1 đến 100 hoặc từ 1 đến 10, 100 hoặc 10 là mức độ trầm trọng nhất. Trong phần thực hành của tôi, tôi hay sử dụng thang điểm 10, đây là thang điểm phổ biến mà chúng ta thường sử dụng trong cách cho điểm số ở các trường học Việt Nam.
Bước 3: Để cụ thể hơn hãy sử dụng bảng phân chia  “Nhật ký miêu tả về tâm trạng hàng ngày” với ba cột phía trái để  viết ra được rõ ràng và cụ thể hơn suy nghĩ tự động.
Bước 4: Sau khi xem xét lại kết quả bằng cách cho điểm lại niềm tin mà bạn đặt vào cho mỗi suy nghĩ tự động từ 1-10 trong cột suy nghĩ hợp lý (cột phía phải của bảng “Nhật ký miêu tả về tâm trạng hàng ngày”), theo mức độ cao nhất thể hiện cảm xúc của bạn, theo từng mức đánh giá dưới đây.
– Không thấy khá hơn tí nào cả
– Khá hơn một chút
– Khá lên rất nhiều
– Hoàn toàn tốt

Nhật ký miêu tả về tâm trạng hàng ngày

Sự kiện xảy ra Suy nghĩ tự động Không hợp lý Câu trả lời hợp lý
Miêu tả những sự kiện nổi bật xảy ra trong ngày. Viết ra những suy nghĩ tự động tiêu cực của bản thân và ước lượng số điểm mà bạn tin vào mỗi suy nghĩ. Nhận diện ra tính không hợp lý trong từng suy nghĩ tự động đó. Chẻ nhỏ những suy nghĩ theo hướng hợp lý hơn và ước lượng niềm tin cho mỗi suy nghĩ tự động đó (1-10).

Việc thực hiện bốn bước trên đây giúp làm rõ và tách bạch ra được các vấn đề hoặc các sự kiện cụ thể và tìm kiếm được những suy nghĩ nào mang tính tiêu cực, từ đó có thể chẻ nhỏ ra các vấn đề để xem xét và tìm cách thay đổi để đưa về hướng suy nghĩ hợp lý nhất.

Đối với một số thân chủ mà tôi làm việc, thật sự ban đầu rất khó khăn cho họ để diễn tả cảm xúc của mình hay những suy nghĩ mà họ có trong đầu. Khi một sự kiện xảy ra họ không lý giải được, họ lẫn lộn giữa cái gọi là sự kiện, suy nghĩ hoặc cảm xúc, có người chỉ có thể nhận diện ra được cảm xúc rất rõ và rất khó lý giải được những suy nghĩ nào đang xuất hiện trong đầu trong thời điểm đó.

Ví dụ: Trường hợp Hậu đến gặp nhà tham vấn với gương mặt cúi gằm, hai chân bước nặng nề, mắt ngấn lệ.
Hậu: Em muốn nói chuyện với chị về mối quan hệ của em với bạn trai, em buồn lắm chị ạ, em không biết phải làm sao đây? Em nên chia tay hay tiếp tục, bạn bè em, ba mẹ em khuyên nên chia tay đi, đừng dính với ảnh nữa nhưng em không thể. Em đã cố gắng nghe lời họ, xóa bỏ hết tin nhắn, email thậm chí thay số điện thoại, nhưng một vài ngày sau là em tìm cách để liên lạc lại với anh, em thấy tâm trạng mình phụ thuộc vào anh ấy nhiều quá chị ạ. Em không biết phải làm sao đây?
Nhà tham vấn: Em vừa chia sẻ với chị là em buồn? Vậy cho chị hỏi là em buồn vì điều gì trong số những điều mà em chia sẻ với chị? Em buồn vì anh ấy chia tay em? Hay em buồn vì em không nghe lời khuyên của ba mẹ bạn bè? Hay em buồn vì em chưa có thể kiểm soát mình khi tìm cách liên lạc với anh ấy? Hay em buồn vì điều gì khác?
Hậu: Gần hai tuần rồi anh ấy không điện thoại cho em.
Nhà tham vấn: Anh ấy không điện thoại cho em nên em buồn? Mà chuyện này xảy ra trong hai tuần rồi, vậy cho chị biết, lúc nào nỗi buồn đó xuất hiện và trong hoàn cảnh cụ thể nào?
Hậu: Trong lúc em đi học, đi ra ngoài đường thì không sao nhưng khi em ở nhà một mình vào buổi tối, kiểm tra điện thoại không thấy tin nhắn của ảnh em thấy buồn và lo lắng lắm chị ạ.
Ở đây Hậu cảm nhận buồn khi bạn trai của cô không điện thoại, nhắn tin cho cô trong hai tuần và nỗi buồn của cô cũng đậm nhạt tùy theo từng thời điểm. Câu hỏi đặt ra là: Tại sao việc bạn trai điện thoại hay nhắn tin cho cô lại quan trọng đối với cô như vậy? Nếu như điều đó không xảy ra thì cô có những suy nghĩ hay nhận định gì về bạn trai của cô? Việc tìm kiếm những suy nghĩ tự động tiêu cực đóng vai trò trong việc chi phối cảm xúc của Hậu và giúp Hậu vượt qua được những khó khăn trong việc quản lý cảm xúc và xây dựng mối quan hệ của mình.