TÂM LÍ HỌC THÔNG THÁI (THE PSYCHOLOGY OF WISDOM)
Đây là chương 1 (Introduction: What Is Wisdom and Why Is It Important?) trong cuốn sách The Psychology of Wisdom: An Introduction của người dịch HTH
Tuy nhiên, dịch giả cho rằng,
Tui dịch “wisdom” (sagesse) là HIỀN MINH chứ ko theo các từ điển thường dịch là “khôn ngoan” (thường bị hiểu theo nghĩa xấu), hoặc ở cực kia là “trí huệ” (thuật ngữ Phật giáo), ”minh triết” (thuật ngữ thường dùng cho giới elite)
Còn ở đây, bản dịch dùng chữ thông thái, để phù hợp với lĩnh vực nhận thực- tư duy mà nội dung của chương bàn đến.
Dẫn nhập
Có nhiều chuyện kể trong những tác phẩm văn học lớn, trong đó có văn chương tôn giáo, kể về những con người theo bất cứ tiêu chí nào cũng được coi là đặc biệt thông thái. Chẳng hạn, Vua Salomon trong sách Cựu Ước, đã tìm ra ai trong hai người phụ nữ là bà mẹ thật của một đứa bé, bằng cách gợi ý rằng đứa bé bị xé làm đôi cho mỗi bà một nửa. Ông tin là người phụ nữ từ chối lệnh vua ban chắc chắn là bà mẹ thật. Trong sách Tân Ước, Chúa Jesus đã kể câu chuyện người Samaritan Tốt bụng, giúp đỡ một người Do Thái đã bị cướp đoạt và đánh đập, mặc dù ở thời đó người Do Thái và người Samaritan thù ghét nhau. Và Phật đã nói rằng niềm vinh dự lớn nhất là đức khiêm cung, và của cải lớn nhất là sự thông thái. Sự thông thái mà Vua Salomon chứng tỏ trong việc xứ lí với hai bà mẹ, của Jesus trong câu chuyện Người Samaritan Tốt bụng, của Phật trong sự nhận thấy tầm quan trọng của sự thông thái, là chủ đề của chương sách này.
Những câu chuyện về sự thông thái không hạn chế trong quá khứ. Trong thời hiện đại, Nelson Mandela đã tự chuyển hoá từ một nhà cách mạng bạo lực thành một trong những lãnh tụ vĩ đại và thông thái nhất mà rất lâu thế giới mới thấy, ông đã đem lại hoà bình cho một đất nước, Nam Phi, vốn bị xé nát vì bất đồng và bạo lực. Martin Luther King Jr. của nước Mĩ, đã đương đầu với áp lực xã hội ghê gớm và sự tù đầy để trở thành một trong những lãnh tụ hàng đầu bênh vực quyền công dân và sự bình đẳng. Gần đây, Malala Yousafzai đã đấu tranh cho phụ nữ ở Pakistan và bị bắn vào mặt vì thế. Thậm chí sau khi bị bắn, bà vẫn tiếp tục vận động cho quyền con người. Và Alexei Navalny đã đấu tranh cho quyền con người ở Nga, ông đã bị đầu độc, rất có thể do chính quyền Nga chỉ đạo, và kết quả là gần như tử vong. Sau khi bình phục như nhờ phép lạ, ông đã trở về nước Nga chỉ để bị bắt giam. Sự thông thái và lòng dũng cảm đi cùng với nó không chỉ là những câu chuyện từ quá khứ. Đó cũng là những câu chuyện của thời nay.
Nếu một điều đã trở thành quá rõ ràng như thế trong thời hiện đại, thì sự thông thái phải có tầm quan trọng và là bản chất không thể thiếu đối với các xã hội trên khắp thế giới. Đôi khi chúng tôi nói đến thế giới ngày nay như một “xã hội kiến thức”, để phân biệt nó với xã hội công nghiệp trước đó mà ở đó công nghiệp là ông vua, và với các xã hội tiền công nghiệp mà ở đó, công nghiệp chưa là phương tiện sản xuất áp đảo. Một xã hội kiến thức là xã hội trong đó kiến thức – ta biết cái gì và biết làm thế nào – thúc đẩy xã hội và sự phát triển của nó. Tầm quan trọng gắn với kiến thức trong thế giới hôm nay được thể hiện ở tầm quan trọng gắn với giáo dục – với các bằng cấp cao đẳng và đại học chứng nhận trình độ và sự thành công của một người khi trở nên có học.
Trong chương này và nhiều chương sau, chúng tôi sẽ tranh luận rằng chúng ta cần chuyển sự nhấn mạnh của mình – rằng điều quan trọng nhất đối với thế giới hôm nay không phải là kiến thức, mà là việc ta dùng kiến thức của mình như thế nào. Và điều đặc biệt quan trọng không chỉ là việc dùng kiến thức, mà đặc biệt là việc sử dụng kiến thức một cách thông thái.
Sự Thông thái là gì?
Sự Thông thái là gì, một cách chính xác? Trong sách này bạn sẽ tìm thấy nhiều định nghĩa về Thông thái. Chúng tôi sẽ không gắng để có một định nghĩa chính xác, vì chưa có sự đồng thuận về lĩnh vực này. Tuy nhiên, có một số đặc trưng mà phần lớn các nhà nghiên cứu và chuyên gia về sự thông thái đồng ý coi là đặc trưng của Người Thông thái (như Grossmann và các đồng tác giả 2019; Jeste và… 2010; Sternberg & Gluck, 2019; Sternberg và… 2019). Ở đây đầu tiên chúng tôi thảo luận một số điểm tổng quát về việc cái gì là thông thái và cái gì không phải thông thái, với ý định nêu rõ vì sao thế giới hôm nay khẩn thiết cần nhiều thông thái hơn.
Người Thông thái tìm kiếm Lợi ích chung
Người Thông thái có điểm chung là họ không chỉ tập trung chú ý vào lợi ích riêng của bản thân, hay lợi ích của những người theo cách nào đó giống như mình – “bộ lạc” ẩn dụ của mình [mức độ cao theo thuyết phát triển đạo đức của Kohlberg]. Khi phán xét và quyết định, nói chung họ suy nghĩ vượt quá bản thân và những người có phần giống mình – gia đình, bè bạn, đồng nghiệp hay những người cùng quốc tịch, sắc tộc…
Thật quá dễ dàng để khi quyết định, ta chỉ xem xét lợi ích của bản thân và những người giống mình, đặc biệt trong một thời đại mà sự tự bận tâm và tự si mê dường như đang đi lên. Thường khi, sự thành công trong các xã hội cá nhân chủ nghĩa chỉ liên quan đến thành quả của riêng từng người, không cần xem những thành quả ấy ảnh hưởng ra sao đến thành quả của người khác. Kết quả là mọi người không còn làm việc cùng nhau một cách hài hoà như đôi khi họ đã làm trong quá khứ.
Ở nước Mĩ, trong thập niên thứ ba của thế kỉ XXI, hai chính đảng hàng đầu là Cộng hoà và Dân chủ trên thực tế đã không có khả năng làm việc cùng nhau và hợp tác vì thành tựu của lợi ích chung. Ở nhiều nước khác, sự phân cực chính trị cũng tăng dần. Ở tất cả các nước, các đường lối nghiêm ngặt được thiết định tạo ra những cấp ưu tiên được chích vaccin Covid 19, nhưng vẫn có nhiều người không mệt mỏi tìm cách chen lên cấp ưu tiên cao hơn. Trong một số trường hợp, có sự vi phạm nghi thức ngoại giao thật lố bịch, như một cặp tỉ phú người Mĩ đã bay đến vùng Yukon hẻo lánh của Canada, giả làm người làm công trong motel nhằm được chích vaccin (Farzan, 2021).
Vì sao lợi ích chung lại quan trọng đến thế? Nó có thể thực sự kém quan trọng trong một thế giới kết nối ít hơn. Nhưng ngày hôm nay toàn thế giới kết nối với nhau rất chặt chẽ. Những gì người ta làm ở một nước có thể ảnh hưởng đến những người khác cách xa nửa vòng trái đất. Nếu ai còn nghi ngờ điều ấy thì có lẽ không gì chỉ rõ sự kết nối toàn cầu tốt hơn sự lan truyền Covid 19. Mặc dù nguồn gốc của coronavirus mới cụ thể vẫn chưa được biết, nhưng dường như nó có khả năng bắt đầu trong hoặc gần một số loại chợ động vật, có thể ở hoặc gần V. H*** (Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh, 2020). Thế giới sẽ sớm khám phá ra cách mà một sự kiện bị cô lập ở *** – hoặc bất cứ nơi nào – có thể trở thành một vấn đề toàn cầu khiến hàng triệu người phải trả giá bằng mạng sống của họ và khiến hàng triệu người khác mắc bệnh.
Rõ ràng là các quan chức chính quyền địa phương *** ban đầu che giấu sự tồn tại, và chắc chắn, cả mức độ nghiêm trọng của dịch bệnh với các quan chức quốc gia (Wong và cộng sự, 2020). Nhưng sau đó, các quốc gia khác không nhận ra mức độ nghiêm trọng của dịch bệnh. Ngày nay, đó là tất cả lịch sử. Một sự kiện từng là một vấn đề ở một khu vực rất cục bộ trên thế giới đã gây ra một mớ hỗn độn toàn cầu thảm khốc.
Xã hội gần đây bị đứt gãy hơn nhiều năm về trước. Cạnh tranh hơn là hợp tác trong vaccin Covid 19 là một ví dụ nhưng không chỉ là ví dụ duy nhất. Một ví dụ hiển nhiên là sự đột nhập chưa từng có vào toà nhà Quốc hội Mĩ ngày 6 tháng 1 năm 2021. Nhiều người trong số những kẻ đột kích dường như đã tin rằng họ đang hành động như những người yêu nước trong việc xâm chiếm Tòa nhà Quốc hội, phá hủy một phần của nó và gây ra cái chết của năm người. Một số lên kế hoạch bắt con tin, hoặc tệ hơn (Biesecker và cộng sự, 2021). Nhiều người trong số này được giáo dục tốt. Chuyện gì đã xảy ra? Làm thế nào những sự kiện như vậy có thể xảy ra trong thế kỷ XXI?
Vì sao Trí Khôn (Trí Thông minh) là không đủ
Trí Khôn (Trí Thông minh) – năng lực học tập, suy luận và thích nghi với môi trường – thường được coi là có nhiều thành phần. Các mô hình hiện đại của trí khôn chia kiến tạo tinh thần này thành nhiều nhân tố và nhân tố phụ có thứ bậc. Nhiều mô hình được sử dụng thông thường đã xuất phát từ công trình của Cattell (1971) – phân biệt Trí Khôn kết tinh (Crystallized Intelligence) và Trí Khôn Linh Hoạt (Fluid Intelligence).
Trí Khôn Kết tinh
Trí khôn kết tinh là cơ sở kiến thức cơ bản. Đó là cái mà ta biết. Khi chúng tôi nói về một “xã hội kiến thức”, là nói về sự xây dựng nên trí khôn kết tinh. Trí khôn kết tinh và kiến thức là cái thể hiện nó, ở mức độ nào đó rõ ràng là cần thiết cho sự thông thái. Ta không thể khuyến nghị về một lĩnh vực hay về thế giới, nói chung, nếu cơ sở kiến thức của ta về lĩnh vực ấy hay về thế giới bị hạn chế nghiêm trọng. Một lợi thế của internet là kiến thức đã được tiếp cận dễ dàng hơn nhiều đối với mọi người trên khắp thế giới. Chẳng may, điều đó cũng có nghĩa là cái giả – cái gọi là “hiện thực thay thế” (alternative fact) – đôi khi khó phân biệt với hiện thực có thực (actual fact), đã trở nên lan truyền nhiều hơn. Thêm nữa, có thể bản thân khái niệm “một xã hội kiến thức” không phải là một ý tưởng tốt như nó có thể dường như được thấy lúc ban đầu.
Trước nhất, có kiến thức không bảo đảm là kiến thức sẽ được sử dụng một cách thông thái. Nhiều nghị sĩ Quốc hội Mĩ, mỉa mai nhau, có bằng cấp từ những trường đại học và cao đẳng danh giá. Các cơ sở kiến thức phát triển cao của họ đã không giúp họ làm việc cùng nhau một cách hữu hiệu. Tương tự, các viên chức chính phủ trên khắp thế giới đã được cảnh báo trong nhiều năm – thực tế là hàng thập kỉ – rằng một đại dịch loại nào đó đang ở ngay chân trời. Vậy mà hầu hết đã không được chuẩn bị khi cuối cùng đại dịch đến vào năm 2020.
Tệ hơn nữa. Các bác sĩ Quốc xã có bằng cấp y khoa và những người khác trong đảng Quốc xã có các loại bằng cấp cao. Kiến thức của họ đã không ngăn họ giết chóc mọi người, mà thực tế còn được nhiều kẻ trong số họ dùng để sáng tạo ra một ý hệ sai lầm về chủng tộc thượng đẳng. Quay trở lại xa hơn một chút, trong Nội chiến Hoa Kỳ, nhiều người có học thức, thậm chí, những người da trắng có trình độ học vấn cao ở miền Nam ủng hộ chế độ nô lệ, trong khi nhiều người ở miền Bắc phản đối nó. Một cuộc chiến chết chóc đã diễn ra, một phần về việc, liệu chế độ nô lệ có nên được phép tồn tại hay không.
Lại nữa, có sự đồng ý chung là loại kiến thức quan trọng nhất cho sự thông thái không phải là kiến thức hàn lâm hay chính thức, mà là kiến thức không chính thức về con người và cuộc đời. Loại kiến thức này đôi khi được gọi là kiến thức tiềm ẩn (tacit) (Polanyi, 1976; Sternberg và cộng sự, 2000). Đó là cái mà ta cần biết để thành công trong đời sống hàng ngày, nó không được dạy một cách chính thức, và thậm chí có thể không thành lời. Sự thông thái được xây dựng một cách căn bản, tuy không phải không có ngoại lệ, trên một nền tảng kiến thức không chính thức (Baltes & Staudinger, 1993, 2000; Sternberg, 1998, 2019b; Webster, 2003, 2007; Weststrate & Glück, 2017). Người ta có thể có nhiều kiến thức hàn lâm nhưng thiếu kiến thức không chính thức về thế giới, hay đơn giản là không biết cách sử dụng kiến thức ấy.
Trí Khôn Linh Hoạt
Trí khôn linh hoạt là năng lực giải quyết những vấn đề tương đối mới hay những vấn đề quen thuộc hơn nhưng thể hiện trong những hoàn cảnh tương đối mới. Theo lí thuyết Cattell, trí khôn linh hoạt làm tăng trí khôn kết tinh (Cattell, 1971).
Trí khôn linh hoạt được đo bằng các đo nghiệm như loạt con số (như 2, 5, 8, 11?) và phân loại từ (như từ nào không thuộc về? THUYỀN, TÀU, BUỒM, TÀU LỚN). Trí khôn linh hoạt cũng như trí khôn kết tinh, là cần thiết cho sự thông thái. Người thông thái luôn luôn đối mặt với những nhiệm vụ mới và những tình huống rất không giống với bất kì tình huống nào mình đã gặp trước đây. Và còn…
Trí khôn linh hoạt cũng như trí khôn kết tinh, có thể không phải là tất cả những gì nó hé lộ. James Flynn (1987, 2012) khám phá ra rằng, trong suốt thế kỉ XX, chỉ số trí khôn (IQ) của người trưởng thành trên khắp thế giới đã tăng lên khoảng 30 điểm, giữa năm 1900 và năm 2000. Tức là khoảng 3 điểm mỗi 10 năm. Sự khác biệt 30 điểm cho thấy sự khác biệt giữa một người được coi là sắp ở tình trạng tâm trí có vấn đề với một người được coi là có mức trung bình về trí óc, hay giữa một người được coi là có mức trung bình về trí óc với một người sắp đạt mức có thiên bẩm về trí tuệ. Rõ ràng sự khác biệt rất lớn. Điểm IQ trung bình vẫn là 100 chỉ vì các nhà đo nghiệm phiên chuẩn đo nghiệm (từ điểm thô). Tức là, họ giữ điểm trung bình là 100, bất kể con số đáp án đúng của người được đo nghiệm. Phần lớn thành tích này – thực ra là hầu hết – nằm ở trí khôn linh hoạt.
Flynn (2012) đã giải thích sự khác biệt ấy là phản ánh những yêu cầu gia tăng về nhận thức của thế giới hiện đại. Một phần sự khác biệt cũng có thể là kết quả của việc cha mẹ có xu hướng trí thức nhiều hơn và của giáo dục mầm non. Trong mọi trường hợp, các điểm IQ không cố định qua các thế hệ, mà đáp ứng các yêu cầu của môi trường. Tuy nhiên, Flynn và nhiều người khác đã nhận ra rằng, ngay cả với những điểm IQ ấy, người ta không có vẻ đáp ứng tốt mọi thách thức mà thế giới đưa ra. Đáp ứng ban đầu với đại dịch Covid 19 đã thật lộn xộn. Các chính phủ trên toàn thế giới đã làm phản ứng không tốt – từ việc đầu tiên là không chuẩn bị, sau đó là ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh, và sau đó là phân phối vắc-xin một cách công bằng. Các chính phủ cũng đã thất bại trong việc vượt qua thách thức của biến đổi khí hậu toàn cầu, ngày càng trở nên tồi tệ hơn khi các chính phủ, tốt nhất, chỉ nói và nói mà không làm gì cả. Và sau đó là việc lạm dụng kháng sinh vô lý, dẫn đến nhiều vi khuẩn có hại được kích hoạt để phát triển đột biến mà sẽ khiến chúng chống lại được tác dụng của kháng sinh. Các chuyên gia đã cảnh báo về tất cả những mối nguy hiểm này trong một thời gian dài, nhưng bất chấp tất cả trí tuệ tập thể của họ, nhiều chính phủ dường như không chú ý đến các cảnh báo.
Như Flynn đã nhận ra, các thách thức lớn nhất của TK XXI không ở trình độ thông minh của chúng ta, mà ở việc trí thông minh của chúng ta được khai triển thế nào. Sternberg thậm chí còn định nghĩa một kiến tạo tâm trí mới: Trí Khôn (Trí Thông minh) Thích nghi (Adaptive Intelligence) hay trí khôn cần thiết để làm cho thế giới trở thành một nơi chốn tốt đẹp hơn. Và phần then chốt của trí khôn thích nghi ấy là sự Thông thái – tìm kiếm một lợi ích chung hơn là sử dụng trí khôn của riêng mình chỉ vì lợi ích riêng biệt của bản thân. Như vậy, trí khôn dường như chỉ đáp ứng được những thách thức của ngày hôm nay nếu nó bao gồm một thành tố là sự Thông thái.
Vì sao sự Sáng tạo là không đủ
Sự Sáng tạo cho ta những khả năng làm mới mà Trí Khôn, ít nhất như được định nghĩa theo truyền thống, không cho ta. Sự Sáng tạo thường được định nghĩa là sự tạo nên một đóng góp – một ý tưởng hay một sản phẩm – vừa mới mẻ vừa hữu dụng hay hữu hiệu cách nào đó. Các đo nghiệm trí khôn căn bản là đo đạc kiến thức của ta (trí khôn kết tinh) và tư duy phân tích với kiến thức ấy (trí khôn lỏng), nhưng sự Sáng tạo vượt quá điều ấy khi đòi hỏi ta có phần vượt quá những cái đã được cho, theo một cách có ý nghĩa.
Nhiều ý tưởng và phát kiến lớn đã là kết quả của sự Sáng tạo của con người. Mona Lisacủa Leonardo da Vinci, Nền Cộng hoà (Republic)của Plato, Người yêu dấu (Beloved)cỉa Toni Morrison, những thăm dò radium của Marie Curie… tất cả đều đòi hỏi sự Sáng tạo. Không có sự Sáng tạo, chúng ta không thể có máy tính, điện thoại cầm tay, tivi… Sự Sáng tạo khiến ta có thể có một thế giới khó hình dung trong quá khứ, trừ ra trong khoa học giả tưởng (bản thân nó cũng là một sản phẩm của sự Sáng tạo).
Tuy nhiên, sự Sáng tạo đã không đủ để giải quyết nhiều vấn đề lớn của thế giới. Khá oái oăm là sự Sáng tạo đã có phần trách nhiệm đối với nhiều vấn đề ấy. Chẳng hạn, biến đổi khí hậu phần lớn là do những cách tân của con người như các động cơ đốt trong, công nghiệp hoá nông nghiệp và nhiều loại chất ô nhiễm do các xưởng máy phát thải… Thuốc kháng sinh là một sự đổi mới sáng tạo tuyệt vời đã bị con người phá hoại khi họ quyết định lạm dụng chúng. Công nghệ hạt nhân có thể là, vẫn đang là, và có thể sẽ là, một sự đổi mới to lớn liên quan đến sản xuất năng lượng, nhưng nó đã được sử dụng để sản xuất vũ khí hủy diệt hàng loạt. Và lỗi của con người trong các nhà máy hạt nhân có thể là thảm họa, như đã là ở Chernobyl.
Bởi vì sự Sáng tạo đã được sử dụng cho những mục đích tiêu cực cũng như tích cực, cũng như trí khôn vậy, nên một số nhà khảo sát sự Sáng tạo phân biệt sự Sáng tạo Tích cực với sự Sáng tạo Tiêu cực. Sự Sáng tạo Tích cực là sự sản sinh những ý tưởng, sản phẩm và bất kì sự cách tân nào mới mẻ và hữu dụng, như theo định nghĩa của sự Sáng tạo, nhưng cũng có lợi theo cách nào đó cho nhân loại ở mọi trình độ (Clark & James, 1999; James và… 1999; James & Taylor, 2010; Sternberg, 2021…) Sự Sáng tạo Chuyển đổi (Transformational Creativity) vượt quá sự Sáng tạo Tích cực ở chỗ nó tìm kiếm sự thay đổi, chuyển hoá, làm cho thế giới trở nên một nơi chốn tốt đẹp hơn (Sternberg, 2021). Sự Sáng tạo Tích cực có thể được phân biệt với sự Sáng tạo Tiêu cực – là sự Sáng tạo theo cách nào đó và ở một trình độ nào đó gây hại cho nhân loại. Ở thái cực của nó, sự Sáng tạo Tiêu cực đôi khi được nói đến như sự Sáng tạo Hiểm ác (Malevolent Creativity)(Cropley và… 2008, 2010, 2014), là sự Sáng tạo có chủ ý gây hại.
Sự Sáng tạo Tích cực có thể được nhìn theo nhiều cách, nhưng theo cách nhìn của chúng tôi thì nó là sự Sáng tạo được sự Thông thái tôi luyện. Đó là sự sử dụng sự Sáng tạo để đạt tới một loại lợi ích chung nào đó, ngay cả ở một trình độ rất cơ sở, như sự phúc lạc (well-being) của những người gần với mình, do đó sự phúc lạc này không làm tổn hại đến những người khác.
Rõ ràng là sự phán xét cái gì là tích cực hay tiêu cực, ở mức độ nào đó, là do con mắt người quan sát. Tuy nhiên, những người tin vào giá trị của sự Thông thái như một kiến tạo tâm lí nhìn chung đồng ý rằng có một thường tri về lợi ích chung đứng bên trên các ý kiến và ý hệ đơn thuần cá nhân. Chẳng hạn cái gọi là điều Luật Vàng – hành xử với người theo cách mình muốn người hành xử với mình (kỉ sở bất dục vật thi ư nhân) – là một nguyên lí thông thái dường như vượt qua mọi biên giới của sở thích cá nhân. Tương tự, hết sức xử sự sao cho ít hại nhất cho người khác, là một tiên đề của sự Thông thái dường như vượt qua mọi phán xét cá nhân cụ thể.
Như thế, cả Trí Khôn và sự Sáng tạo tự bản thân chúng không đủ để thương thảo những vấn đề nghiêm trọng mà thế giới hôm nay đối mặt, trừ khi chúng dựa trên sự Thông thái.
Vì sao sự Thông thái khó tìm đến thế
Vì sao dễ dàng tìm thấy Trí khôn và sự Sáng tạo hơn nhiều so với sự Thông thái trong thế giới thực? Người ta có thể dễ dàng nghĩ về những thủ lĩnh thông minh, tương đối dễ dàng nghĩ về những thủ lĩnh sáng tạo, nhưng khó lòng gọi ra trong đầu những thủ lĩnh thông thái. Ở đây chúng tôi có vài gợi ý về sự hiếm có của Thông thái. Về căn bản, rất nhiều trong các lý do là vì có quá nhiều lựa chọn bên cạnh sự Thông thái mà rất nhiều lựa chọn lại được tưởng thưởng lớn hơn, ít ra là trong ngắn hạn.
Các loại Thông thái
Sự Thông thái có thể áp dụng ở ngoài bản thân ta, xuyên qua các lĩnh vực đòi hỏi và trong những lĩnh vực đòi hỏi chuyên biệt. Chẳng hạn, Staudinger (2019) đã gợi ý rằng sự Thông thái hoàn toàn khác khi nó được áp dụng vào những lĩnh vực khác bên ngoài bản thân ta, và Grossmann và các tác đồng tác giả (2019) đã gợi ý rằng sự Thông thái có thể hoàn toàn mang tính chuyên biệt của lĩnh vực.
Các loại Thông thái:
Chiều sâu của thông thái/ Ứng dụng miền thông thái | Sâu sắc (D) | Hời hợt (S Shallow) |
Miền tổng quát (G) | GD Lời khuyên trực tính (insightful) sâu sắc trên nhiều lĩnh vực | Lời khuyên trực tính hời hợt trên các lĩnh vực |
(Các) miền chuyên biệt (S) | SD Lời khuyên trực tính sâu sắc trong một lĩnh vực duy nhất | Lời khuyên trực tính hời hợt trong một lĩnh vực duy nhất |
Cá nhân (P) | PD Nhận thức trực tính sâu sắc về bản thân | Nhận thức trực tính hời hợt về bản thân |
Bảng trên nêu danh sách những loại thông thái có thể thích hợp để xử lí với những tình huống đa dạng rộng rãi (sự Thông thái tổng quát các lĩnh vực (domain-general wisdom), với những loại tình huống chuyên biệt (sự Thông thái cho lĩnh vực chuyên biệt (domain-specific wisdom), và với bản thân ta (sự Thông thái cá nhân) (personal wisdom) (Sternberg 2019). Một ví dụ về sự Thông thái tổng quát các lĩnh vực là hành xử với người theo cách như mình muốn người hành xử với mình. Một ví dụ về sự Thông thái cho lĩnh vực chuyên biệt là bảo đảm rằng mình trích dẫn những học giả đi trước có liên quan mà mình dựa vào để lập luận trong một luận văn. Một ví dụ về sự Thông thái cá nhân là nhận ra rằng nếu mình nghiên cứu sự Thông thái nhưng lại có xu hướng vênh váo hay ích kỉ, thì mình phải cố kiểm soát những xu hướng ấy, vì chúng sẽ phá hoại uy tín của bản thân khi thính giả thấy được chúng. Người ta có thể nhìn chung thì thông thái, nhưng không thông thái khi gặp những vấn đề liên quan đến bản thân.
Vấn đề thể hiện sự Thông thái trong thế giới là có hai mặt. Nếu sự Thông thái có nhiều phần là chuyên biệt cho một số loại lĩnh vực và tình huống, thì sự Thông thái xuyên qua mọi lĩnh vực và tình huống có thể khó đạt được, vì số kiến thức tiềm ẩn mà ta cần có, để thông thái được xuyên qua dải rộng các thách thức của con người là rất lớn. Còn với sự Sáng tạo, vốn có xu hướng chủ yếu là mang tính chuyên biệt cho từng lĩnh vực, một phần do kiến thức chuyên biệt cho lĩnh vực cụ thể mà ta cần có để có thể sáng tạo – thì người ta có thể vắt kiệt khá nhanh sự Thông thái chuyên biệt cho lĩnh vực ấy khi đến với những lĩnh vực khác mà người ta không có được trình độ cao về kiến thức. Hơn nữa, nếu sự Thông thái cá nhân thực tế là một kiến tạo tâm trí tương đối riêng biệt, theo kiểu các trí khôn tương tác và nội tâm (interpersonal and intrapersonal intelligence) trong thuyết trí khôn đa dạng của Gardner (2011), vậy thì người ta có thể thông thái trong một số lĩnh vực hay trong một số tình huống cá nhân, nhưng không thông thái trong cả hai. Nói cách khác, sự Thông thái có thể có ở đó, nhưng rất hạn chế về độ rộng mà nó được áp dụng.
Vấn đề thứ hai được nêu rõ trong bảng là sự Thông thái có thể sâu hoặc nông. Khi nó nông, nó phân tích một vấn đề chỉ ở trình độ hời hợt. Sự Thông thái hời hợt có thể không đủ để giải quyết những vấn đề thách thức của thế giới thực. Kết quả có thể là giải pháp không chỉ không đủ thông thái để cho ta một cơ sở xử lí thích đáng vấn đề mình gặp. Một số học giả thậm chí không coi sự Thông thái nông cạn là sự Thông thái thực, mà chỉ là một cố gắng đạt đến Thông thái.
Không-Thông thái
Một lớp vấn đề thứ hai trong biểu hiện của sự Thông thái trong thế giới thực là quá nhiều cái có vẻ thông thái thực ra không phải là Thông thái (Sternberg 2019). Bảng dưới nêu danh sách 6 loại không-thông thái mà thoạt nhìn có thể có vẻ thông thái.
Loại không thông thái | Biểu hiện |
Gần như-thông thái: định nghĩa hạn chế về lợi ích chung | Đặc điểm biệt định không đầy đủ của các bên liên quan bị ảnh hưởng |
Gần như-thông thái: cân bằng lợi ích hạn chế | Mất cân bằng lợi ích để ủng hộ nhóm này hơn nhóm khác |
Vẻ ngoài thông thái | Sự xuất hiện giả tạo của sự thông thái là kết quả của vị trí quyền lực hoặc thẩm quyền |
Thông thái-giả quy ngã | Sự xuất hiện giả tạo của thông thái được thúc đẩy bởi lợi ích cá nhân |
Thông thái-giả đen tối | Sự xuất hiện giả tạo của thông thái được thúc đẩy bởi ý định xấu xa |
Thông thái không- thực hiện | Thông thái trong lời nói nhưng không phải hành động |
Loại thứ nhất là gần như-thông thái (quasi-wisdom), trong đó có sự xác định hạn chế về lợi ích chung. Ai đó có thể tin rằng mình thông thái, nhưng áp dụng sự gần như-thông thái của mình chỉ với những người giống như bản thân hay những người mình tri nhận là thành viên của cùng “bộ lạc”, như những người trong gia đình hay dòng tộc, hay giống nòi, sắc tộc, quốc tịch, tôn giáo…
Loại thứ hai cũng là gần như-thông thái (quasi-wisdom), trong đó không có sự cân bằng (balance) thích đáng giữa các lợi ích khác nhau và thường cạnh tranh nhau. Người gần như-thông thái loại này ưu ái những lợi ích của một hay vài nhóm hơn các nhóm khác, một cách cố ý hay vô tình, hay đơn giản là đặt nặng hơn sự ưu ái của riêng mình.
Loại thứ ba là vẻ ngoài thông thái (veener of wisdom), trong đó cá nhân được gán nhãn người thông thái bởi một số người có quyền hoặc tín đồ, chỉ do vị trí quyền lực hay sự mê hoặc của người ấy trong vai thủ lĩnh. Những người này không hề có sự thông thái, nhưng các tín đồ của họ hành xử, hoặc tự nguyện (như trong một giáo phái) hoặc không tự nguyện (như trong một chế độ độc tài thường nguỵ trang như nền dân chủ) như thể người ấy là bậc thông thái.
Loại thứ tư là giả-thông thái qui ngã (egocentric pseudo-wisdom), là vẻ ngoài giả thông thái nhưng thực ra là mang động cơ tư lợi. Người này hành xử như thể đang giúp đỡ người khác, mặc dù chỉ quan tâm đến việc làm lợi cho bản thân.
Loại thứ năm là giả-thông thái đen tối (dark pseudo-wisdom), ở đó vẻ ngoài giả thông thái nhưng động cơ là những ác ý như làm hại người khác.
Loại thứ sáu là sự thông thái không thực hiện (unrelaized wisdom), là sản phẩm của một hành tiến không được tiếp tục đi cho hết. Không dễ gì sinh ra những ý tưởng thông thái, nhưng sinh ra ý tưởng thì dễ hơn nhiều đưa nó vào hành động, vì khi đó thường có sự đối kháng nghiêm trọng.
Tóm lại, có ít nhất 6 loại ý tưởng có thể thoạt nhìn có vẻ thông thái nhưng soi xét kỹ thì hoá ra không phải.
Sự Ngu ngốc
Người ta cũng không đạt được sự Thông thái vì rơi vào Ngu ngốc. Trí Khôn (Thông minh) không đảm bảo chống lại được Ngu ngốc, mà những người thông minh có thể thực ra lại dễ rơi vào Ngu ngốc vì họ tin là mình miễn nhiễm với nó. Có 8 loại Ngu ngốc mặc dù chắc chắn còn có những loại khác.
Đầu tiên, người ta lạc quan một cách phi thực tế khi tin rằng: vì một ý tưởng là của mình, nên nó phải hay. Hai là, người ta quy ngã (lấy mình làm trung tâm) khi lầm tin rằng sau hết thì mọi thứ đều là xoay quanh mình. Ba là, người ta là những kẻ giả toàn tri khi lầm tin rằng mình biết tuốt, hay ít ra là biết mọi thứ cần thiết để giải một vấn đề phức tạp. Bốn là, người ta là những kẻ giả toàn năng khi tin rằng mình có sức mạnh toàn diện. Năm là, người ta là những kẻ giả bất khả thương tổn khi tìn rằng mình có làm gì (sai) thì cũng thoát khỏi mọi hậu quả. Sáu là, người ta bất chấp đạo lí khi tin rằng các nguyên tắc đạo lí áp dụng cho người khác chứ không cho mình. Bảy là, người ta mắc vào thiên kiến khẳng định bản thân khi tin rằng mình nhìn mọi sự rõ ràng còn người khác thì không, vì vậy ưu ái lợi ích riêng của bản thân. Cuối cùng, người ta mắc vào “nguỵ biện chi phí ngầm” (sunk cost fallacy) khi không thể buông bỏ một chiến lược thất bại trong khi giải quyết một vấn đề – một cách ẩn dụ, họ “ném tiền tốt sau tiền xấu”.
Sự Độc địa
Chướng ngại cuối cùng cho sự Thông thái là sự Độc địa, nó xảy ra khi người ta, thường là các nhà lãnh đạo, ít có hoặc không có biên giới đạo lí và kết quả là họ hành động theo những lối thủ lợi cho bản thân mà không xem hành động của mình có hại cho người khác hay không. Một số chính khách trên khắp thế giới đã luôn luôn độc địa, tuyên bố là mình quan tâm đến người khác trong khi chỉ quan tâm đến bản thân. Đáng tiếc là luôn luôn có những người đi theo những nhà lãnh đạo như thế, do tin tưởng, sợ hãi, câu kết, hay ham muốn đứng ngoài vòng nguy hiểm.
Kết luận
Có lẽ không thuộc tính nào quan trọng cho phúc lạc, thậm chí cho sự sống sót, của con người, hơn là sự Thông thái. Tuy nhiên, sự Thông thái đã không nhận được sự chú ý mà nó xứng đáng, bất kể ở nhà, ở trường hay trong xã hội. Chúng ta không thiếu nhà lãnh đạo thông minh và thậm chí sáng tạo. Điều chúng ta thiếu là những nhà lãnh đạo thông thái. Hy vọng rằng những người học hỏi sự Thông thái sẽ trở thành các nhà lãnh đạo thông thái của thế hệ mới, và sẽ tìm cách giải quyết những vấn đề mà người tiền nhiệm đã thường không tiếp cận một cách thông thái mà lẽ ra họ có thể.
- BS Đỗ Thị Thuý Anh chỉnh lý