Tài liệu Y học

Thư viện tài liệu học tập Y học

Lọc nâng cao

Chuyên ngành

Tiếng Việt

NGƯỜI HỌC HỌC NHƯ THẾ NÀO?

Chuyên ngành: Tâm lý căn bản
Bài viết có chỉnh lý so với bản gốc, nhằm nhấn mạnh chức năng học tập và các thao tác trong tiến trình tư duy, cũng như các tiến trình tâm trí khác của người học.

- BS Đỗ Thị Thuý Anh chỉnh lý

“Chúng ta bắt đầu già đi khi chúng ta ngừng học”

(ngạn ngữ Nhật Bản)

Có vẻ như tất cả những vấn đề liên quan đến học tập đã được nhắc đến và thảo luận rất nhiều. Tuy vậy, chúng ta đều nhận thấy vẫn còn quá nhiều những thất bại trong học đường, có nhiều người bỏ học và một số lượng lớn sinh viên học tập thiếu động cơ, mục đích. Chắc chắn là có rất nhiều yếu tố gây nên tình trạng đáng tiếc này. Tuy nhiên, ở khía cạnh sư phạm, liệu có phải vẫn tồn tại những lỗ hổng về sự hiểu biết quá trình học tập? Liệu chúng ta đã xem xét đến chức năng của trí thông minh con người, để hiểu biết một cách tốt nhất, người học học tập như thế nào?

Chúng ta biết rõ các giai đoạn phát triển nhận thức theo lứa tuổi cũng như các nguyên tắc tâm lý-xã hội học và các trường phái triết học làm nền tảng cho học tập. Tuy nhiên, không có lý thuyết nào nhấn mạnh đến sự chia sẻ chức năng giữa hệ thống thị giác và thính giác của người học, đến sự hoạt động song hành giữa bán cầu phải và bán cầu trái, nhưng phụ nữ có ưu thế về trực giác và nam giới là khả năng logic. Vì vậy, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy có 2 kiểu học, một kiểu theo xu hướng cụ thể hoá, kiểu kia theo xu hướng trừu tượng hoá, và thậm chí dễ dàng nhận thấy sự nổi trội của bán cầu não trái so với bán cầu não phải. Chúng ta đã bao giờ nghe những người xung quanh phàn nàn về chuyện mất trí nhớ ? Hoặc có những người khoe khoang là mình đã học thuộc lòng được tất cả. Những lời khẳng định như vậy rõ ràng thuộc về lĩnh vực “thần thoại thần kinh học” và phần nào cho thấy sự thiếu hiểu biết về các cơ chế của sự học tập.

Khoa học thần kinh nhận thức khẳng định rõ ràng rằng hệ thống thần kinh là nơi đặc quyền cho sự phát triển tri thức và hình thành nên các công cụ cơ bản cho việc học tập. Giống như tất cả các hệ thống cơ quan khác trong cơ thể, hệ thống thần kinh bao gồm các bộ phận hoạt động một cách ăn khớp, hướng đến việc thu nhận kiến thức. Đó cũng là vai trò của các giác quan và não bộ, điều khiển các hoạt động chuyên biệt và cần thiết, ví dụ như sự tập hợp các thông tin, động cơ, xử lý thông tin và sự tạo ra tri thức. Việc triển khai các hoạt động khác nhau này tiến hành theo một trình tự xác định, đảm bảo sự thành công của toàn bộ hoạt động nhận thức. Hoạt động này dựa trên sự vận hành và sử dụng hợp lý hệ thống thần kinh, là hệ thống tạo nên tương tác với môi trường ở cả khía cạnh tinh thần lẫn vật chất. Vì vậy, học tập là một quá trình liên quan đến nền sinh học. Đó là kết quả tích hợp tất cả các thông tin thu nhận được, xử lý và sử dụng. Nó được nhận biết như một loại tích hợp, tạo ra những thay đổi cấu trúc ngay ở trong não.

Để hiểu rõ và nhận thức đúng vai trò của hệ thần kinh trong việc lĩnh hội kiến thức, chúng tôi nhận thấy tầm quan trong của việc mô tả bộ máy học tập ở ngay những chương đầu tiên. Sau đó là phân tích sự hoạt động hoặc chức năng của bộ máy học, và từ đó đưa ra các ứng dụng sư phạm.

Hệ thần kinh: Bộ máy học

Hệ thống thần kinh là cơ quan đặc quyền mà ở đó hình thành nên tri thức. Hệ thống thần kinh gồm 2 phần lớn: hệ thống thần kinh ngoại biên và hệ thống thần kinh trung ương.
Chúng tôi sẽ không có tham vọng mô tả hệ thống thần kinh nói chung mà chỉ mô tả nó trong mối quan hệ với các lĩnh vực học tập.
Hệ thống thần kinh ngoại biên bao gồm hai phần chính: các giác quan và các neuron hướng tâm. Chính nhờ hệ thống thần kinh ngoại biên mà các liên lạc giữa thế giới bên trong và bên ngoài được thiết lập. Thực chất, các giác quan tiếp nhận các thông tin, chuyển các thông tin đó lên não bộ thông qua các neuron hướng tâm – các xa lộ truyền dẫn. Các giác quan là “lính tiên phong” của kiến thức, chúng là các cơ quan đầu tiên được huy động. Nói tóm lại, chúng là cửa vào của tất cả thông tin.

Các giác quan

Các giác quan thật là tuyệt vời! Đó là những tổ chức cho phép chúng ta cảm nhận được các cảm giác nhạy cảm, làm chúng ta nhận thức được thực thể vật chất. Chính các giác quan đã hỗ trợ cuộc sống, làm cho cuộc sống dễ chịu, nuôi dưỡng trí thông minh và đảm bảo sự tương tác của bản thân với bên trong cũng như bên ngoài bằng việc thu nhận các thông tin.

Các giác quan giúp khai tâm việc học và chất đầy trí nhớ. Tất cả các kí ức mà chúng ta có đều góp phần vào việc xây dựng kiến thức mới. Không có kí ức, đó là “tabula rasa” [tấm bảng trống trơn]. Các giác quan có thể không có ích như nhau. Liệu có phải đúng như vậy không? Người đầu bếp tương lai không chỉ học về vị mà còn về mùi và màu. Người thợ may tương lai phải nhạy cảm cả với chất vải, màu sắc và kiểu đáng. Nhà thơ ưu đãi âm điệu và cũng dùng đến các cảm giác giác quan khác nhau. Tóm lại, trên thực tế, nếu một người không bị khuyết tật về các giác quan, anh ta sẽ huy động tất cả các giác quan trong quá trình nhận thức.

Có người tin rằng, thị giác là giác quan tiêu biểu nhất, nhưng có thể người khác lại cho đó là thính giác. Giáo dục có xu hướng đề cao thị giác hoặc thính giác do các thông tin trừu tượng (ngôn ngữ) chủ yếu đi qua hai giác quan này. Nhưng một cảnh đẹp luôn thu hút sự chú ý của mọi người không phải chỉ bằng hình dáng, màu sắc mà còn bằng âm thanh và mùi vị, có thể cảm nhận được từ phong cảnh đó; và vì sao lại không phải cả bằng những ngọn gió vuốt nhẹ làn da?.

Phân loại giác quan

Nhờ có sự tiến triển của khoa học, ngày nay đã có phân loại mới các giác quan. Thay vì phân loại truyền thống với năm giác quan (được biết đến là vị giác, khứu giác, thị giác, thính giác, xúc giác), các số liệu khoa học gần đây nhất cho thấy có tám giác quan, và nhấn mạnh tầm quan trọng của xúc giác. Thực chất, có một cách chia giác quan thành hai loại lớn: các giác quan nằm trong một tổ chức (vị giác, khứu giác, thính giác, thị giác) và các giác quan nằm trong toàn bộ cơ thể-chính là hệ thống thần kinh giác quan cơ thể (xúc giác, chuyển động và vị trí cơ thể, đau). Cách phân chia này có cơ sở giải phẫu học, vì khu vực não thuỳ đỉnh, nằm sau rãnh trung tâm, là nơi xử lý cao nhất cho tất cả các thông tin thu nhận được này. Đây là cách phân chia giúp hiểu được rõ hơn vai trò quan trọng của giác quan.

Bảng: Phân loại các giác quan

Giác quan tồn tại trong một bộ phận cơ thể Giác quan tồn tại trong toàn bộ cơ thể
Thị giác Xúc giác (sờ chạm, nóng lạnh, áp lực)
Thính giác Chuyển động cơ thể
Khứu giác Vị trí cơ thể
Vị giác Đau

Tổ chức giải phẫu các giác quan và hệ thần kinh

Tham khảo “Sức khoẻ tâm thần tập 1“, chương 3- và ở đây.

Đặc điểm sinh lý của não người làm cơ sở cho học tập: tính khả biến

Khoa học thần kinh đã chứng minh một cách rõ ràng rằng não người được ban cho tính khả biến: khả năng to lớn trong việc thu nhận và lưu trữ các kích thích từ môi trường. Vì thế, não người, có khả năng lĩnh hội các kiến thức mới.

Đó là một hiện tượng diễn ra ngay trong lòng hệ thống neuron, cụ thể hơn là ở các tiếp giáp synap giữa các neuron: cái này được tạo ra thì những cái khác sẽ biến đi hoặc chuyển đổi khác đi tùy vào các thông tin nhận được từ môi trường, được não bộ xử lý và tích hợp. Tất cả các hành vi học tập đều tạo ra sự thay đổi cấu trúc não theo cách này hay cách khác, và diễn ra trong suốt cuộc đời. Sự biến đổi chuyên biệt ở não bộ tùy thuộc vào kinh nghiệm, động cơ và những ảnh hưởng từ môi trường của mỗi cá nhân.

Một điều thú vị là tính linh hoạt của não bộ dù luôn có tính liên tục nhưng cũng có những thời kì đạt được tối ưu, “nhạy nhất”. Lúc đó, mọi hoạt động, đặc biệt là học tập có thể đạt được hiệu quả rất cao, thường là ở thời ấu thơ. Điều này cũng giống như việc học nói một ngoại ngữ.

Sự phát triển não tiến triển tùy theo các thời kì trong cuộc sống (vòng đời), mang tính chất sinh học, và tùy vào môi trường và các trải nghiệm cụ thể của từng cá nhân. Do đó, mỗi người học đều sở hữu trong mình một bộ não duy nhất, không giống bất cứ ai. Chính nhờ vào tính mềm dẻo này mà não bộ không ngừng tiến triển trong suốt cả cuộc đời. Đó chính là lý do vì sao con người có thể học ở bất kì tuổi nào.

Chức năng của não người- mô hình tư duy

Bước cuối cùng của quá trình trí tuệ diễn ra bên trong não người, chính ở đó ra đời tri thức, các hiểu biết. Để làm được điều đó, não người, phần nào giống như cách của một cái máy tính, xử lý một loạt các số liệu bằng cách cập nhật tiềm năng của bán cầu não trái và não phải. Vì vậy, các mô tả sau đây mang tính chất mô hình lý thuyết.

Nhờ vào hệ thống thần kinh ngoại vi, não người nhận được một sô lượng lớn các đơn vị thông tin đa dạng, chọn lọc và do các neuron chuyển tới dưới dạng các luồng thần kinh (có tính chất điện sinh học và hoá sinh. Trước đó, các đơn vị thông tin này đã được các giác quan tiếp nhận, nếu chúng chứa đựng các tín hiệu cảm giác. Đây chính là các dữ liệu mới. Ngoài ra, nhờ vào việc học đã diễn ra từ trước, não người đã tích lũy một lượng kiến thức và kinh nghiệm trong kí ức. Đây là khối tích lũy. Ngay khi diễn ra việc học, não sẽ kết nỗi toàn bộ, cả mới cũng như cũ.

Về phần các bán cầu của não người, chúng sở hữu các đặc tính chuyên biệt bán cầu: não phải là trung khu lưu giữ các thông tin mới và các thông tin cũ, tuy vậy chỉ dưới dạng hình thức cảm giác, trong mối quan hệ của chúng với các trải nghiệm. Điều này tạo ra một tổng thể các đơn vị không đồng nhất, thậm chí là rất đa dạng, không ổn định, khác biệt. Ngược lại, bán cầu não trái là trung khu lưu giữ các thông tin đã được tích lũy, dưới dạng khái niệm, câu chữ, biểu tượng, không cảm giác. Điều này làm cho chúng trở thành một khối kiến thức đồng nhất, ổn định và có tính lược đồ. Ví dụ như từ “cái bàn” sẽ tồn tại trong bán cầu não trái khái niệm “bàn” dưới dạng một biểu tượng, được giản lược và hoàn toàn mang tính chức năng, trong khi đó ở bán cầu não phải, “cái bàn” trở thành một tri giác động, gắn liền với quá khứ, có thể là cái bàn đặt trong một bữa tiệc mà trên nó có những đồ vật lạ mắt. Bán cầu não trái là trung tâm của các khái niệm, biểu tượng, sơ đồ; bán cầu não phải là nơi tập trung của cảm giác, kỉ niệm, kinh nghiệm trong cuộc sống.

Trong quá trình trí tuệ này, não người đã làm như thế nào để lấy ra được các đơn vị mới mang tính đồng nhất, ví dụ như một khái niệm, một biểu tượng, một sơ đồ từ những đơn vị không đồng nhất, ví dụ như từ cảm giác, kỉ niệm và kinh nghiệm? Não người đã sử dụng con đường nào để sinh ra nội dung kiến thức, tri thức? Đây chính là câu hỏi căn bản liên quan mật thiết đến phương pháp học của người học cũng như phương pháp sư phạm của người dạy. Điều quan trọng là phải hiểu làm thế nào mà người học có thể thành công, đạt tới tri thức ở giai đoạn cuối cùng của việc học, và làm thế nào mà người dạy có thể mang đến một sự trợ giúp hiệu quả cho người học trong quá trình chinh phục tri thức.

Với mục đích xử lý toàn bộ các số liệu đồng nhất, không đồng nhất và đưa ra được một đơn vị mới đồng nhất, não người cần thực hiện ba chức năng vĩ đại: chức năng không đồng nhất hóa, chức năng đồng nhất hóa và chức năng bố sung – còn gọi là chức năng thứ ba (etat tiers). Các thuật ngữ này, thoạt đầu, chắc chắn gây ra ngạc nhiên cho mọi người vì chúng hoàn toàn mới, chưa bao giờ được nhắc đến. Các thuật ngữ này được vay mượn của nhà vật lý học Lupasco (1974)- người đã sử dụng chúng để mô tả các nguyên lý của vật chất sinh học, vật lý học và tâm trí. Sau nhiều cuộc thảo luận với Lupasco và dựa trên các kết quả nghiên cứu khoa học của chúng tôi, các thuật ngữ trên hoàn toàn phù hợp để minh họa cho tính năng động của não bộ trong quá trình học tập.

Tính chất không đồng nhất của não người là do bán cầu não phải mang lại, nơi cập nhật tiềm năng của các đơn vị không đồng nhất; trong khi đó tính đồng nhất lại ở bán cầu não trái với những hoạt động tập trung vào các đơn vị ổn định. Các bán cầu này khác biệt nhau. Và vì các bán cầu có nhiệm vụ hoạt động theo hướng cộng sinh để có thể liên kết và bổ sung cho nhau các dữ liệu của mỗi bên, một tính năng thứ 3-“trạng thái thứ ba” (etat tiers) được sinh ra, có mục tiêu cụ thể là thiết lập sự bổ sung và cân bằng giữa bán cầu trái và bán cầu phải. Trên thực tế, tính năng động của não người trong việc học tập tiến hóa cùng với sự đồng vận bổ trợ gối nhau của hai bán cầu não khi thực hiện các chức năng của chúng. Quá trình này tiến dần đến sự hình thành tri thức mới, tùy thuộc vào tính linh hoạt của cả hai bán cầu não, cũng như sự tham dự vào quá trình đó của mỗi bán cầu.

Tính không đồng nhất

Bán cầu não phải được đặc trưng hóa một cách rõ nét về tính không đồng nhất. Chính bán cầu não phải nhận và lưu giữ tất cả các cảm nhận cảm giác và ghi nhớ các kí ức và kinh nghiệm đã trải qua. Thực chất, nó cũng là trung tâm của các dữ liệu mới và các dữ liệu đã tích trữ, nhưng đơn thuần chỉ dưới dạng hình thức cảm giác, trong mối quan hệ với các trải nghiệm. Tất cả những dữ liệu này tạo thành một tổng thể các đơn vị không đồng nhất, đa dạng, không ổn định và khác nhau. Tổng thể có vẻ lủng củng, tạp nham này có thể so sánh với những miếng ghép của bộ đồ chơi ghép hình hay miếng khảm nhỏ trong bức tranh ghép. Cũng theo cách đó, bán cầu não trái nhận thức các đặc tính tách biệt, riêng biệt, đến nỗi mỗi một sự vật hiện tượng hoàn toàn khác biệt với tất cả các thứ khác.

Chính điều đó đã ban cho bán cầu não một số đặc tính vượt trội. Bán cầu não phải có tính phân kì. Chúng tập hợp nhiêu sự vật hiện tượng khác nhau được thu nhận từ trước bởi các giác quan với tư cách là cảm giác. Đối với bán cầu não phải, tất các các “ghế” là không liên quan với nhau. Tri giác về mỗi “ghế” mang một tổng thể các chi tiết khác biệt nhau. Với đặc tính như vậy, Blanchard nói rằng bán cầu não phải mang đến một “linh hồn” cho mỗi vật. Tương tự, mỗi hiện tượng đều mang trong mình một hình ảnh “sống động hóa” hoặc “cá biệt hóa” trong bán cầu não phải.

Bảng: Những ưu thế bán cầu

Bán cầu não phải Bán cầu não trái
Chức năng không đồng nhất Chức năng đồng nhất
Phân kì

Phi ngôn ngữ

Tổng hợp

Trực quan

Phi thời gian

Liên tưởng-kết hợp

Hội tụ

Ngôn ngữ

Phân tích

Logic

Thời gian

Điều đáng ngạc nhiên nhất là bán cầu não phải nhận thức các hiện tượng, sự vật mà không cần gọi tên chúng. Tất cả các tri giác chạy dồn về bán cầu não phải đều không có tên, không có nhãn hiệu. Chúng đều dưới dạng phi ngôn ngữ hay không lời. Hơn nữa, các thông tin thu được thông qua các giác quan được nhận thức một cách chung chung, tổng thể: theo một số người thì bán cầu não phải tổng hợp, nắm bắt và thậm chí phán đoán tổng thể. Bởi vậy nên chúng ta mới gán cho bán cầu não phải mang «trực giác phụ nữ ». Ví dụ sau đây thường thấy trong cuộc sống có thể minh họa rõ nét tính chất trực giác của bán cầu não phải. Một người mua một món đồ chưa lắp ráp (các mảnh tháo rời) (ví dụ như cái bàn), trước tiên sẽ phải xem hình tổng thể của món đồ đó, nhận thức toàn bộ vât đó trong tổng thể của nó, họ không xem ngay các chỉ dẫn lắp ráp. Sau đó, họ mới sắp xếp từng phần của món đồ mà không cần phải mò mẫm. Trực giác tổng thể đã chỉ dẫn cho họ: tri giác này chính do bán cầu não phải chỉ đạo và định hướng trước. Trực giác ở đây mang hàm ý cảm giác.

Bán cầu não phải là trung tâm của khái niệm “ở đây và bây giờ”. Nó giải phóng con người khỏi hai giới hạn quan trọng là thời gian và không gian. Những em bé chưa có khái niệm về thời gian, sống trong thời hiện tại, và khái niệm ngày mai đối với chúng không có nghĩa gì. Điều này cũng đúng ở những người trưởng thành khi trải nghiệm các tình cảm mạnh mẽ. Có phải thời gian học ở lớp trôi qua rất nhanh đối với các học sinh có động cơ học tập cao và đối với các giảng viên đam mê? Bán cầu não phải không chỉ phi thời gian mà chúng còn tự do về không gian. Nó có thuộc tính nói kết các sự kiện, sự việc khác nhau hoặc giống nhau, không quan trọng là các sự kiện này được lấy ra từ những kí ức ở Châu Âu hay châu Á, và trộn lẫn với các sự kiện tại chỗ: tất cả đều được bán cầu não phải huy động đề tìm các dữ liệu mà bán cầu trái yêu cầu. Chúng ta đã nhiều lần gọi bán cầu não phải là “phi lý”, “cơ quan không đáng kể”. Tuy nhiên, bán cầu não phải không phải thực hiện việc tìm tòi một cách ngẫu nhiên.

Thực chất, bán cầu não phải, thông qua chức năng không đồng nhất, triển khai việc tìm kiếm bằng việc liên tưởng, việc đặt kế cận, và thậm chí bằng việc xếp lớp; nó thực hiện một cách vô thức các mối quan hệ logic giữa một số thành tố chung của 2 sự kiện/thông tin để tạo thành cái thứ 3. Nó tạo ra một chuỗi các sự kiện, cảm giác được sinh ra từ các nội dung gần với thông tin/sự kiện này hoặc thông tin kia. Một liên hợp như vậy không phải là sự sắp xếp đơn giản các thành tố gắn bó với nhau không trật tự, không điểm chung. Giữa thông tin mà bán cầu phải liên tưởng, có một vùng tương đồng. Chính đây là vùng xếp chồng, làm xuất hiện một cách vô thức thông tin thứ 3. Hình dưới là về sự liên tưởng, mô tả tính năng động do tính không đồng nhất ở bán cầu não phải sinh ra. Phần màu xanh là phần chung giữa thông tin O và O’. Tuy thế, phần xanh không phải là O và O’. Phần này hình thành đồng thời ở vùng tương đồng và xếp chồng. Và vào một lúc nào đó, nó sẽ không còn là O, không là O’, mà sẽ hình thành thông tin thứ 3.

Hình: Sự liên tưởng

Ví dụ: Yves muốn kế với Marie về một người bạn nhưng không may anh ta lại không nhớ tên của người đó. Ngay lập tức, anh ta nhìn thấy một chiếc xe màu xanh chạy ngoài đường vả đột nhiên, tên của người bạn hiện ra trong đâu của Yves: tên người bạn là Cadanh. Điều gì đã xảy ra? Tên của người bạn không phải là Xanh, và hiệu của xe ô tô đó cũng không phải là Cadanh. Tuy nhiên, sự liên tưởng đã diễn ra. Có một điểm chung giữa 2 thông tin trên: sự đồng âm giữa Xanh và Cadanh.

Atlan củng cố minh chứng trên. Ông khẳng định rằng nguyên tắc ngẫu nhiên có tính tổ chức- nguyên tắc đã định hướng tính logic và vật chất trong sự phát triền, tăng trưởng cá thẻ và trong sự tiến hóa loài, cũng có thể được áp dụng trong quá trình học tập.

Chính nhờ liên tưởng mà bán cầu não phải cập nhật nguồn tri giác, ký ức và trải nghiệm để đưa ra tổng thể các dữ liệu cần thiết và đầy đủ, cho phép sinh ra các tri thức mới.

Tính đồng nhất

Chức năng đồng nhất lại thuộc về bán cầu não trái, giúp định hình các thông tin một cách cố định và ghi nhớ các cảm giác, ký ức, trải nghiệm dưới dạng khái niệm, biểu tượng (trừu tượng hoá), không cảm giác. Bán cầu não trái thích sử dụng từ ngữ hoặc biểu tượng đề nhận biết hoặc mô tả sự vật, thông tin và để điều chỉnh các ý tưởng thông qua việc tạo ra một biểu tượng đơn giản và thiết dụng. Nó tạo ra một khái niệm, một cái tên hoặc một ký hiệu cho các thông tin đa dạng, thay đổi, không ổn định, không đồng nhất do bán cầu não phải cung cấp. Theo nghĩa này, bán cầu não trái có tính hội tụ.

Từ ngữ mà bán cầu não trái gán, gọi tên cho một thông tin/sự kiện, thường là tĩnh, cố định; nó trở thành chuẩn để diễn tả bất cứ thông tin/sự kiện như vậy diễn ra. Do vậy, người ta nói bán cầu não trái có tính ngôn ngữ. Nó cũng dễ dàng tạo ra các ký hiệu, biểu tượng để diễn tả thông tin, giống như các ký hiệu toán học hoặc các biểu đồ, hình họa ở trên đường để chỉ dẫn cho mọi người đi.

Bán cầu não trái hành động bằng sự phân tích. Trước tiên, nó cần tiếp cận các thành phần đa dạng của thông tin trước khi đưa ra một giải pháp; Nó thích coi mỗi một phần là một kiệt tác ngay khi nó phải đưa ra lời nhận xét tổng thể. Nếu phải lắp ráp đồ, bán cầu não trái sẽ nghiên cứu trước tiên các chỉ dẫn, thực hiện các bước theo trình tự diễn ra.

Bán cầu não trái, vì có chức năng phân tích nên hoạt động theo tính logic. Do vậy, nó có khả năng đưa ra kết luận từ các tiên đề; nó lựa chọn các phương tiện để đạt đến một mục đích; nó tổ chức các lớp sự kiện với mục đích hiện thực một kế hoạch/dự định. Nó được mệnh danh là duy lý /thuần lý.

Bán cầu não trái cũng có nhiệm vụ đặt xác định thông tin/sự kiện trong một thời gian cụ thể. Nó có tính thời gian. Không hề có ý định tách thực tại khỏi các giới hạn thời gian, nó ứng dụng chính xác các đơn vị thời gian: năm, tháng, ngày, giờ v.v. Đồng hồ để bàn, đồng hồ đeo tay, động hồ tính giây được giải mã bởi bán cầu não trái. Đối với khái niệm không gian cũng như vậy, nó diễn giải các khái niệm kilomet, vùng, miền, đất nước: bán cầu não trái theo nghĩa nào đó có tính đo đạc.

Vì tính chất, chức năng đồng nhất, bán cầu não trái là trung tâm của sự ổn định, của những thứ được xác định một cách cố định, được sắp xếp hệ thống, ví dụ như các khái niệm, từ, ký tự. Nhờ vào nó, con người có thể hiểu và nhận biết những cái đã biết.

Tính bố sung hay “trạng thái thứ 3” (trạng thái T)

Tính năng động của não người trong việc học tập không chỉ giới hạn ở 2 chức năng đồng nhất ở bán cầu não trái và không đồng nhất ở bán cầu não phải. Đúng là việc xử lý tính không đồng nhất hay phân kì ở một bán cầu não và tính đồng nhất hay hội tụ ở bán cầu não kia đã tạo ra các thao tác chuyên biệt không thể thiểu trong toàn bộ quá trình hoạt động trí óc, như học tập, sáng tạo, cải cách hay giải quyết vấn đề. Tuy nhiên, nếu các chức năng này diễn ra hoàn toàn độc lập với nhau, sẽ không có tri thức, kiến thức mới nào được sinh ra. Các nghiên cứu đã cho thấy hai bán cầu não bổ sung cho nhau và tạo ra một trạng thái cân bằng. Chỉ có sự hỗ trợ lẫn nhau này mới cho phép sinh ra các đối tượng tri thức mới. Sự tìm kiếm cân bằng và bổ sung giữa hai bán cầu não tạo nên một chức năng thứ ba của não người trong quá trình hoạt động trí óc, chức năng được mô tả và gọi dưới cái tên “trạng thái thứ 3”.

“Trạng thái thứ 3” không phải tự nhiên mà có. Nó là kết quả của sự huy động một số thành tố của “cái đã biết”, những thành tố có các điểm tương đồng với đối tượng nhận thức chưa biết, đang được lĩnh hội. Brian Geene hoàn toàn có lý khi cho rằng mỗi một kinh nghiệm giác quan đều chứa đựng sóng cho phép cấy ghép với kinh nghiệm khác để tạo ra một thành tố mới. Ông đã minh họa hiện tượng này bằng cách dẫn ra ví dụ các dây đàn violon “mỗi một dây đàn đều chứa đựng một số lượng lớn các điệu rung khác nhau, được biết đến dưới tên các âm”. Màu xanh nước biển cũng gây ra những cảm hứng liên tưởng khác nhau, tùy thuộc vào kinh nghiệm của từng cá nhân. Một người vùng Địa trung hải, một người Anh quốc, một ca sĩ hoặc một lực sĩ đấm bốc sẽ có liên tưởng khác nhau khi cùng nhìn thấy màu xanh nước biển.

“Trạng thái thứ 3” là một hoạt động, thực hiện thao tác tư duy khái niệm hoá (Tham khảo “Sức khoẻ tâm thần tập 1“, bài Tư duy): cập nhật đầy đủ các thông tin không đồng nhất để giúp bán cầu não trái nhận biết những thông tin mà nó đang cần và tạo ra một thành phẩm mới có tính đồng nhất.

Ngay khi khởi động quá trình tâm trí, bán cầu não trái chuyển một yêu cầu đến bán cầu não phải: tìm cho bán cầu não trái những cái nó đang cần trong số những thông tin đã biết để nó ghép tạo một kiến thức mới. Bán cầu não phải triển khai: nó tích lũy một loạt thông tin không đồng nhất. Khi mà bán cầu não trái chưa tìm được cái nó cần, bán cầu não phải tiếp tục cập nhật kho nguồn của mình, và đặc biệt là, nó tạo ra các liên tưởng mới. Bán cầu não phải tiếp tục làm như vậy cho đến khi một lượng các thông tin, chi tiết không đồng nhất được nhắc lại đủ để giúp bán cầu não trái, với chức năng đồng nhất, nhận ra là cái nó đang tìm kiếm sắp được tìm thấy. Bước cập nhật cuối cùng ở bán cầu não phải chính là “trạng thái thứ ba” hay “trạng thái T”: bán cầu não phải đã đạt được đến điểm bão hòa trong việc tích lũy các dữ liệu và đi đến ngưỡng đầy đủ thông tin, cho phép bán cầu não trái triển khai thực hiện việc tạo ra một sự đồng nhất mới. Như vậy, “trạng thái T” đã thiết lập sự cân bằng giữa 2 bán cầu não. 2 chức năng đồng nhất và không đồng nhất đã đóng vai trò bổ sung cho nhau.

Tính không đồng nhất tạo ra một ngưỡng tới hạn các dữ liệu -“trạng thái T” và tính đồng nhất nhận biết “trạng thái T” này. Chức năng “trạng thái thứ 3” theo dõi, hoạt động dựa trên chức năng đồng nhất vả không đồng nhất trong quá trình trí óc bằng việc tương hợp hoạt động của 2 chức năng này. Chức năng “trạng thái thứ 3” của não đã tạo ra rào cản thứ 2 phải vượt qua trong hoạt động lĩnh hội tri thức (động cơ là rào cản thứ nhất) và đóng vai trò cơ bản trong học tập.

Tóm lại, chức năng không đồng nhất, phần lớn thuộc về bán cầu não phải- luôn cập nhật một nguồn dữ liệu đa dạng từ tri giác. Trong khi đó, chức năng đồng nhất phần lớn lại ở bán cầu não trái, mà lĩnh vực hoạt động lại tập trung đến các dữ liệu ổn định từ trí nhớ. Và sau đó, 2 bán cầu, hoàn toàn phân biệt với nhau, phải cộng sinh để có thể liên kết và hoàn thiện các thông tin, mà mỗi bên sở hữu. “Trạng thái T” nhằm mục đích thiết lập sự bổ sung và cân bằng giữa hai bán cầu, 2 khối dữ liệu. Sự năng động của não người trong học tập, tiến hóa, trong sự đồng vận và ở đó các bán cầu não thực hiện các chức năng của mình một cách đan xen. Quá trình này dẫn đến việc tạo ra một đối tượng tri thức mới.

Cuối cùng, cũng cần nhắc lại rằng việc chia chức năng theo bán cầu có tính tương đối. Tính biệt hoá bán cầu được chứng minh bằng giải phẫu học nhưng hoạt động nhận thức diễn ra thực sự là do sự phối hợp (hoạt động liên hiệp của các vùng vỏ não) mà có.

Với mong muốn nhấn mạnh tính năng động của bộ máy học tập trong tổng thể chung, có thể mô tả trình tự các bước phải vượt qua để lĩnh hội trí thức, được khởi động bằng các kích thích do các giác quan đem lại; các cảm giác, dưới dạng các xung thần kinh (tính chất điện thần kinh), được đưa đến vùng limbic. Vùng này nhận định sự cần thiết theo đuổi việc học tập và nếu sự đánh giá là tích cực, chúng ta sẽ có động cơ; bán cầu não phải tích lũy và cập nhật các thông tin đến từ các giác quan và các thông tin đã lĩnh hội được trong kí ức (tính không đồng nhất); “trạng thái thứ ba” nhập cuộc để đạt đến ngưỡng đầy đủ của thông tin; và cuối cùng, bán cầu não trái đạt được đối tượng tri thức mới (tính đồng nhất).

Não người trong việc lĩnh hội tri thức

Con đường mà não người trải qua để tìm được các yếu tố đồng nhất từ các yếu tố không đồng nhất liên quan nhiều đến quá trinh học ở người học và phương pháp dạy của người dạy. Do đó, chúng ta cần hiểu người học đã đạt được tri thức như thế nào và làm cách nào người dạy có thể mang đến sự trợ giúp hiệu quả cho người học trong quá trình chính phục tri thức.

Đối với người học

Não không phụ thuộc vào ai cả: chính não cập nhật 3 chức năng. Học tập chính là công việc của não bộ.  Bước đầu tiên, não củng cố việc cập nhật nguồn dữ liệu ở bán cầu não phải bằng việc ghi lại các kí ức, trải nghiệm mà chắc chắn sau này sẽ có những điểm tương đồng nào đó với các đối tượng tri thức mới. Não luôn luôn ý thức rằng nó không phải hoàn toàn ở địa hạt xa lạ và bản thân nó cũng sở hữu một số yếu tố định hướng sự tìm kiếm. Cách tiếp cận này, theo một nghĩa nào đó, giống hành vì khi được giới thiệu món ăn mới: ta sẽ thử món mới và kiểm tra mùi vị. Nếu món mới có vị, màu sắc, hình thức quen, giống với một món nào đã biết, ta sẽ tiếp tục thử. Ngược lại, nếu món này lạ, không giống món nào ta đã biết, ta sẽ ngần ngại khám phá hoặc thậm chí từ chối ăn. Điều này cũng đúng với việc học: người học phải nhận thấy các kiến thức mới không hoàn toàn xa lạ với anh ta và trí nhớ của anh ta có khả năng đưa đến cho anh ta những hình ảnh gợi ý, thì anh ấy sẽ tiếp thu nhanh chóng, đi qua “trạng thái thứ 3″, sắp xếp vào khu vực đồng nhất. Nếu kiến thức là cực kì mới, nó sẽ chỉ được thu nhận ở khu vực không đồng nhất mà thôi.

Vì vậy, người học có thể tiến bộ trong quá trình học tập bằng việc rút ra tập hợp các dữ liệu từ các trung tâm lưu giữ kí ức đa dạng ở bán cầu não phải: đây chính là giai đoạn phân kì. Bán cầu não phải không ngừng tăng nguồn dữ liệu không đồng nhất cho đến khi đạt đến ngưỡng mà ở đó những điều đã biết sắp có thê trộn/liên kết với những cái mới: đây là giai đoạn “trạng thái thứ 3”. Do đó, việc học tập sẽ được triển khai khi có sự cân bằng, tức là từ những dữ liệu mà bán cầu phải cung cấp, bán cầu não trái có thể bắt đầu liên hệ để lĩnh hội được kiến thức mới. Khi mà người học vẫn thiếu các dữ liệu để đạt được trạng thái T, chứng tỏ trong anh ta vẫn còn những điều mơ hồ, chưa rõ, không hiểu. Việc không đạt được trạng thái T chứng tỏ còn thiếu các dữ liệu cần thiết, cản trở việc đạt ngưỡng. Người học phải vượt qua được bước này: đây cũng chính là rào cản thứ 2 trong quá trình học tập.

Quay lại ví dụ cái ghế, chúng ta biết rằng cần phải tích lũy tập hợp dữ liệu đầy đủ trước khi biết đến khái niệm “cái ghế” (vật thể để ngồi được, cao hơn mặt đất, có chân…) và để nhận biết nó. Thực tế, việc người học đạt đến ngưỡng thông tin/dữ liệu để nhận biết và gọi tên “cái này”,*cái kia” là rất thiết yếu. trong các hình thể thô sơ, nếu chưa đủ các yếu tố nhận biết cái ghế, đương nhiên chúng ta khó mà đạt tới ngưỡng tri nhận cái ghế.

Các hoạt động nhận thức khác của bộ não giúp người học hình thành và duy trì kiến thức

  1. Tri giác
  2. Trí nhớ
  3. Học tập
  4. Ngôn ngữ
  5. Sự chú ý
  6. Động lực và cảm xúc

Tham khảo “Sức khoẻ tâm thần tập 1“, các  bài cùng tên.

Các trạng thái căn bản của người học khi tiến hành học tập

Người học thu nhận kiến thức mới bằng việc sử dụng hệ thống thần kinh mà tự nhiên đã ban cho anh ta. Và để hoàn thành nhiệm vụ này, hệ thống thần kinh đòi hỏi tất yếu ở người học một số ứng xử, một số thái độ tiên quyết. Người học là chủ thể của hoạt động học, cần thể hiện ngay từ đầu một động cơ rõ ràng và trong suốt quá trinh học, một sự tham gia tích cực và cam kết trách nhiệm. Tức là người học phải có động cơ, năng động và chịu trách nhiệm.

Động cơ

Trước khi dẫn sâu vào quá trình học tập, người học phải có được hứng thú của mình về sự cần thiết và hữu dụng của tri thức cần lĩnh hội. Điều quan trọng là anh ta phải suy luận được sự cần thiết và tính ưu việt của kiến thức cho hiện tại và tương lai.

Một động cơ khác, dựa vào niềm tin về bản thân. Nếu chúng ta muốn nhiệt tình khi thực hiện một dự án nào đó, ít nhất chúng ta cũng phải tin vào khả năng của chúng ta trước cả khi triển khai thực hiện. Học sinh sẽ không thể hứng thú học môn toán nếu như ngay từ đầu học sinh nghi ngờ khả năng của mình về các con số, về giải quyết các bài toán hình hoặc các lý thuyết tập hợp, hay nói cách khác, anh ta tự nhận ngay mình là người thua cuộc. Người học cần có niềm tin chắc chắn răng mình có khả năng thực hiện và thành công trong các bài học được yêu cầu: anh ta phải tin vào năng lực, ý tưởng và phương pháp làm việc của chính minh. Bản chất của niềm tin này là dựa trên quá trình tư duy, giống như sự suy luận về sự cần thiết của môn học, đều là từ kết quả nhận thức.

Khi người học thực hiện các hành vi học tập đúng đắn, anh ấy sẽ cần một sự khuyến khích, tán thưởng (thường thể hiện bằng các phần thưởng vật chất) từ môi trường xung quanh. Sự khích lệ này, thông qua các thúc đẩy thứ cấp (tức các thúc đẩy hướng xã hội) củng cố cho hành vi và tạo động lực tiếp tục học. Tuy nhiên, các phần thưởng vật chất nhanh bị nhàm chán.

Người học, thông qua việc học tập, điều kiện hoá các hoạt động học tập, để tạo ra nguồn động lực nội tại. Như vậy, khi người học đạt được các mục tiêu của bản thân, phản ứng sinh lý trong cơ thể sẽ tương tự như khi được thoả mãn các thúc đẩy hương tới tự nhiên: khi đói được ăn, khi khát được uống (tạo phản xạ có điều kiện). Nguồn động lực này mang tính chủ động cho người học và không bị nhàm. Ví dụ như khi học Ngữ văn, người học có thể được khuyến khích bởi việc thể hiện tốt các ý tưởng của mình, ít nhất là bằng một ngôn ngữ hợp lý và lối viết không sai. Trong tình huống này, anh ấy sẽ cảm nhận hết sức mạnh, sự cần thiết và đạt được hứng thú học cũng như ứng dụng các nguyên tắc ngữ pháp tiếng Việt. Học sinh này được thúc đẩy và rất hứng thú trong các giờ học tiếng Việt.

Sự lo lắng cũng có thể trở thành một nguồn năng lượng có giá trị cho động cơ của người học. Ham muốn chinh phục thách thức, người học luôn mong muốn chứng minh với chính mình khả năng thành công đối với một bài học nào đó cũng như đối với tất cả các bài học khác cũng là động cơ nội tại quan trọng. Tham vọng của anh ta sẽ thúc đẩy anh ta tự đua với chính mình. Điều này càng khẳng định vai trò chủ thể của người học, tức tính chủ động, trong tất cả các trải nghiệm học tập.

Người học sẽ chủ động hoạt hóa tích cực hệ limbic của anh ta từ lúc bắt đầu và trong suốt quá trình học.

Sự tham gia

Người học cũng phải thể hiện sự tham gia tích cực và bền vững trong suốt quá trình học. Sự tham gia này, ban đầu thể hiện động tính của người học, nhưng sau đó, bản thân nó sẽ mang lại thêm động cơ cho người học.

Người học cần chủ động thực hiện hành vi học tập trong nhóm lớp, khi đó, sự động viên hay khích lệ sẽ tới và giúp người học có động lực tiếp theo. Đây là hình thức tập mà B.F. Skinner đã nói tới.

Anh ấy phải tự mình thực hiện trải nghiệm này bằng cách đóng góp toàn bộ năng lực, các kiến thức đã biết, cũng như các kinh nghiệm đã có của mình. Quá trình học tập đòi hỏi người học phải luôn sẵn sàng khởi động nguồn tiềm năng của mình. Trước hết, người học phải ý thức được các nguồn năng lượng mà mình có được để thực hiện công việc đó đúng hạn và sử dụng toàn bộ các khả năng đó. Nếu tránh sự tham dự này, người học đã từ chối vai trò chủ động trong học tập và từ chối môi quan hệ với người dạy và môi trường.

Ngược lại, người học mong muôn tham gia chủ động vào quá trình học sẽ dẫn mình vào một trải nghiệm bên trong (tức điều kiện hoá). Trải nghiệm này dựa trên mong muốn học tập, sở thích cũng như nhu cầu thỏa mãn hứng thú. Quá trình học tập đòi hỏi phía người học sự chuyên cần, bền bỉ và nhiều nỗ lực. Con đường đôi khi rải đầy những trắc trở, khó khăn và những cái chưa biết. Khi chúng ta lạc đường trong quá trình, cần phải biết quay lại các bước và bắt đầu lại con đường. Khi chúng ta cảm thấy hoàn toàn cạn sức, cần phải tìm đến những trợ giúp phù hợp, từ giáo viên hoặc bạn bè. Cuối cùng, sự tham gia của người học thể hiện nhiều nhất ở cường độ mà anh ta phải duy trì ở từng bước của việc học.

Một cách đảm bảo sự tham gia bên bỉ của người học trong suốt quá trình học là đặt họ vào các dự án/bài tập cá nhân. Anh ta trở thành bên “nhận tiền” của công việc đào tạo: anh ta đang làm việc của mình. Giống như trường hợp chủ doanh nghiệp, người học tự quản lý việc học của mình. Anh ấy phải tự đặt ra các mục tiêu rõ ràng và cụ thể, anh ấy phải vượt qua các bước khác nhau đẻ giải quyết công việc tùy theo nhịp độ và điều kiện, anh ấy phải tự đánh giá công việc cũng như tiến độ, anh ấy chỉnh sửa các định hướng dưới sự trợ giúp của giáo viên và anh ấy tự khám phá ra các giải pháp. Tức là anh ấy đã trở thành chủ thể của việc học, thúc đẩy và động cơ liên tiếp sinh ra.

Người học cũng cần nối dài sự tham gia của mình ở các công việc khác ngoài dự án/bài tập cá nhân; anh ta cũng phải ý thức rằng anh ta cũng một thành viên của một dự án tập thể của lớp. Người học cũng cần có những kinh nghiệp học tập với nhóm, ban đầu là dưới sự chỉ dẫn của giáo viên. Tất cả cùng thực hiện một dự án và cũng nỗ lực chung để hoàn thành dự án cá nhân và dự án tập thể. Việc tham gia tích cực vào dự án tập thể giúp người học tạo ra quan hệ gắn bó với giáo viên và các bạn trong lớp cũng như tăng cường giao tiếp giữa họ. Điều nảy tạo ra sự năng động trong tương tác giữa người học và người dạy, cũng như tạo kĩ năng tổ chức thực hiện sau này.

Hệ quả của sự tham gia này là những học sinh trong cùng một lớp có thể giúp nhau học tập. Những bạn khá hơn, hoặc hiểu bài trước có thể giải thích, giúp đỡ những bạn yếu hơn: sự giúp đỡ lẫn nhau cũng góp phần làm cho mối quan hệ giữa các học sinh càng lành mạnh. Mối quan hệ này làm cho mỗi học sinh đều cảm thấy mình là một thành viên của lớp và lớp học là “lớp học hợp tác mà trong đó mỗi người đều góp phần tạo ra thành công của người khác cũng như của lớp”. Học sinh thực hiện các dự án cá nhân nằm trong các dự án tập thể của cả lớp.

Tính trách nhiệm

Ngoài động cơ và sự tham gia người học cần phải có trách nhiệm với quá trình học tập của chính mình. Trước tiên điều này thể hiện qua khả năng chủ động tự chủ trong việc học tập chứ không phải là rơ móc của giáo viên cũng như không phải ỷ vào sự hỗ trợ của các học sinh khác trong lớp. 

Tính có trách nhiệm được thể hiện bằng sự kiên trì trong học tập. Trước một vấn đề dễ, người học thường dễ dàng cảm thấy hứng thú và nhiệt tình giải quyết, nhưng khi đối mặt với những vấn đề khó hơn, những người không có trách nhiệm thường từ chối vượt qua khó khăn và có thể từ bỏ cả dự án cá nhân của mình. 

Tính có trách nhiệm sẽ được đẩy mạnh nếu tính sáng tạo của người học được hỗ trợ. Tính sáng tạo sẽ giúp người học chấp nhận rủi ro, cố gắng đề xuất các giả thuyết, thúc đẩy người học phiêu lưu vào con đường có thể gập ghềnh nhưng hứa hẹn. Người học cần được hỗ trợ để có cơ hội giải thích các quan điểm cá nhân, các nguyên do vì sao anh ta chấp nhận những rủi ro đó hoặc lựa chọn con đường đó. 

Phát huy tính trách nhiệm ở người học sẽ giúp người học tự đánh giá việc học của mình và tự điều chỉnh khi cần thiết. Thực chất việc tự thừa nhận một thất bại hoặc một lỗi nào đó và có khả năng bắt đầu lại, thể hiện nhân cách của người chiến thắng. Như vậy họ sẽ biết giá trị của thành công và trải nghiệm về thành công càng làm người học có thêm hứng thú

Sự kiên trì của người học là một đặc điểm tính cách cá nhân, nhưng cũng là một đặc điểm có thể học được nếu được hỗ trợ.