
Bắt chước ở trẻ nhỏ và trẻ mẫu giáo sớm – Chương 3
Tham khảo chương 1
Tham khảo chương 2
Chương 3 Bắt chước sơ sinh và trẻ em mắc tự kỷ hoặc hội chứng Down
Tóm tắt: Chưa có nhiều thông tin và ít quan sát được báo cáo về việc bắt chước trong giai đoạn sơ sinh ở trẻ em có phát triển không điển hình. Chương này sẽ trình bày các quan sát về việc bắt chước có thể xảy ra ở trẻ sơ sinh của trẻ em bị hội chứng Down và một quan sát video tại nhà theo kiểu ngẫu hứng về một đứa trẻ mắc tự kỷ.
Động lực và Nền tảng Lý thuyết1
Cho đến nay trong câu chuyện, chúng ta đã thảo luận về khả năng bắt chước bẩm sinh như một khả năng có thể quan sát được ở trẻ sơ sinh có phát triển điển hình theo giả định. Có nghĩa là, các nhà nghiên cứu thường cố gắng thực hiện các biện pháp phòng ngừa cần thiết để không bao gồm những trẻ có bất kỳ yếu tố nguy cơ nào được biết đến cho sự phát triển không tối ưu. Điều này bao gồm trẻ sơ sinh có nhiều loại rào cản khác nhau, như là, trẻ sinh non, trẻ có cân nặng khi sinh thấp, trẻ bị ngạt, trẻ mắc hội chứng Down, hoặc trẻ có các biến chứng bệnh lý khác. Do đó, các báo cáo thường nêu rõ rằng những trẻ được đưa vào các nghiên cứu về sự bắt chước ở trẻ sơ sinh đều được sinh đủ tháng và không có bất kỳ biến chứng nào được biết đến như được chỉ ra bởi điểm số Apgar hoặc khám sức khỏe của chúng. Tuy nhiên, nếu hiện tượng bắt chước trong giai đoạn sơ sinh là một hiện tượng có thật, thì sẽ trở nên thú vị khi điều tra xem liệu trẻ sẽ tiến triển một chẩn đoán tâm thần kinh về sau này thế nào, hoặc trẻ sơ sinh được sinh ra với những đặc điểm khác biệt đã biết, có khác biệt về khả năng bắt chước các cử chỉ khuôn mặt so với trẻ điển hình hay không.
Nếu việc bắt chước sơ sinh là một năng lực “điển hình” và nếu những quan sát được trình bày trước đó (xem Chương 2) cho thấy loại bắt chước này liên quan đến việc ít tránh ánh mắt hơn trong một tình huống xã hội (tương tác giữa mẹ và trẻ), thì câu hỏi nảy sinh là liệu trẻ em có đa thức thần kinh, chẳng hạn như trẻ mắc tự kỷ hoặc hội chứng Down, có thể thể hiện hành vi bắt chước sơ sinh hay không. Có thể việc bắt chước sơ sinh là quan trọng cho sự phát triển kỹ năng xã hội trung tâm sau này? Điều này được thể hiện rõ ràng trong “giả thuyết giống như tôi” (like me hypothesis) của Meltzoff (2007), trong đó cho rằng hành vi bắt chước sơ sinh có nghĩa là “điểm khởi đầu của nhận thức xã hội” (tr. 126). Nếu vậy, thì sự thiếu vắng hành vi bắt chước trong giai đoạn sơ sinh có thể là một dấu hiệu sớm cho thấy có điều gì đó khác thường với khả năng của một đứa trẻ trong việc liên kết với thế giới bên ngoài. Quan điểm này nhắc lại lý thuyết về sự phát triển sớm của tự kỷ do Rogers và Pennington (1991) xây dựng, trong đó họ cố gắng mô tả các lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống sớm có thể ảnh hưởng đến các vấn đề liên quan xã hội, thường là trung tâm của tự kỷ. Hành vi bắt chước là một trong những năng lực trung tâm trong lý thuyết của họ. Tóm lại, họ đề xuất rằng hành vi bắt chước sơ sinh liên quan đến sự phát triển xã hội, và rằng khả năng này thiếu vắng nếu chúng ta có thể thực hiện một nghiên cứu trên trẻ sơ sinh sau này sẽ phát triển chứng tự kỷ. Một giả thuyết tương tự cũng đã được đưa ra bởi những người khác. Hobson (1993) thậm chí đã đề xuất rằng hành vi bắt chước đặc biệt quan trọng cho việc hiểu các quá trình phát triển dẫn đến tự kỷ hoàn toàn ở trẻ em. Ông viết rằng “các bất thường trong…sự phối hợp tương tác-xúc cảm là cơ bản cho hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả các trường hợp tự kỷ” (tr. 78–79). Do đó, theo Hobson, hành vi bắt chước cấu thành một trong những nguồn gốc có thể cho sự bất thường này.
Điều quan trọng là một quan sát cho thấy trẻ sơ sinh có thể bắt chước đã được coi là bằng chứng cho khả năng nguyên thủy về tính liên chủ thể (intersubjectivity) (ví dụ, Trevarthen, 1979, 2011a). Điều này có nghĩa là trẻ sơ sinh, ngay từ lúc sinh ra, đã được trang bị khả năng tham gia vào các trao đổi có mục đích với những người khác (ví dụ, Rochat & Passos-Ferreira, 2009; Trevarthen & Aitken, 2003; Trevarthen, 2011a, 2011b). Nếu chúng ta bỏ qua cuộc tranh luận liệu việc bắt chước ở trẻ sơ sinh có tồn tại hay không và chấp nhận nó như một khả năng thực sự (như tôi đã làm), nó trở thành một khả năng đã thúc đẩy giả thuyết rằng việc bắt chước ngay từ lúc sinh ra chỉ ra một biểu hiện tiềm tàng của tính liên chủ thể sơ cấp (Trevarthen, 2011a). Nếu vậy, điều này cũng nhấn mạnh rằng chúng ta cần hiểu đúng hơn về vị trí của nó trong sự phát triển, không chỉ cho trẻ em điển hình mà còn cho những trẻ thuộc quỹ đạo phát triển không điển hình. Điều này cũng được khẳng định bởi các tác phẩm của nhiều nhà nghiên cứu và lý thuyết gia (ví dụ, Bråten, 1998; Reddy, 2008), nhưng có lẽ được thể hiện mạnh mẽ nhất qua công trình tiên phong của Trevarthen như được minh họa trong các trích dẫn sau:
Đáng chú ý nhất, trước khi một đứa trẻ có khả năng xử lý và khám phá các đồ vật vô tri, nó đã cho thấy sự nhạy bén trong tỉnh thức về trạng thái có động lực và cảm nhận của những người khác, mà họ sẵn lòng tương tác theo cách thích hợp với những gì trẻ bộc lộ, và trẻ phản ứng theo những cách tương tác phức tạp để thích ứng với các biểu hiện của con người, thường là bắt chước, nhưng không chỉ đơn thuần bằng việc bắt chước (Trevarthen & Aitken, 2003, tr. 112).
Và
Những đứa trẻ sơ sinh bắt chước những người khác, không chỉ để hành động giống như họ, mà còn để tham gia vào một mối quan hệ giao tiếp và hợp tác với họ thông qua một sự chuyển di cảm nhận về hành động thân thể… Theo cách này, chúng có thể bắt đầu xây dựng những hiểu biết có thể phục vụ cho việc xác định một người đồng hành cụ thể trong ý nghĩa của một thế giới chung (Trevarthen, 2011a, tr. 124).
Nếu Trevarthen là đúng, thì chúng ta có thể đặt câu hỏi quan trọng giống như đã làm trong bài báo gần đây của chúng tôi (Heimann & Holmer, 2021): Liệu năng lực này của trẻ sơ sinh có liên quan sơ khởi đến sự phát triển điển hình, hay nó là một khả năng cũng có thể được quan sát ở những trẻ sơ sinh khác, tiếp theo một lộ trình phát triển không điển hình?
Nhiều nhà nghiên cứu về tự kỷ trong nhiều năm qua đã ghi nhận rằng việc bắt chước là một trong những khả năng mà so với trẻ điển hình, trẻ tự kỷ sử dụng một cách ít hơn hoặc không sử dụng chút nào, và điều này thậm chí có thể được coi là một khiếm khuyết cơ bản (Gowen, 2012; Nadel, 2006, 2014; Rogers, 2006; Sigman và cộng sự, 2004; Vanvuchelen và cộng sự, 2011; Vivanti & Hamilton, 2014; Volkmar và cộng sự, 2005). Việc bắt chước được coi là đặc biệt quan trọng cho trẻ em mắc ASD để phát triển vì nó “hỗ trợ cảm giác kết nối và tương tác giữa các cá nhân” (Sigman và cộng sự, 2004; tr. 224), nhưng cũng vì việc bắt chước là thiết yếu cho việc học tập thông qua quan sát. Hầu hết các chương trình đào tạo dựa trên hành vi hiện đang được sử dụng cho trẻ em tự kỷ đều nhấn mạnh việc bắt chước như một năng lực hoặc công cụ cơ bản cần được dạy và trở nên dễ tiếp cận đối với trẻ em tự kỷ (xem Schreibman và cộng sự, 2015 và Chương 9).
Như đã đề cập một cách trước đó, lý thuyết của Rogers và Pennington (1991) đã chỉ ra rằng sự bắt chước sơ sinh mà là một khiếm khuyết sớm thì có khả năng một đứa trẻ mới sinh đó sau này sẽ nhận được chẩn đoán tự kỷ. Được truyền cảm hứng từ lý thuyết của Rogers và Pennington, tôi đã phác thảo hai con đường phát triển có thể cho trẻ em có tự kỷ (Heimann, 1998), một đề xuất mà tôi bắt đầu hình thành trong một năm nghỉ phép ở Oslo từ năm 1996 đến 1997, là một thành viên của Diễn đàn Lý thuyết về Tương tác giữa các chủ thể tại Trung tâm Nghiên cứu Cao cấp do Viện Hàn lâm Khoa học và Văn học Na Uy tổ chức. Diễn đàn được tổ chức bởi Stein Bråten, và chính ông là người đã mời tôi tham gia nhóm. Trong năm đó, tôi đã chứng kiến và tham gia vào một số cuộc thảo luận đầy cảm hứng và sâu sắc. Tôi đặc biệt nhớ những cuộc đối thoại đôi khi sôi nổi nhưng cũng rất mở mang giữa Colwyn (Trevarthen) và Stein. Đề xuất mà tôi trình bày, trong năm 1998, trong chương của mình, kết hợp kiến thức của tôi về tự kỷ với lý thuyết của Bråten (1988, 1998), tóm lại, gợi ý rằng chúng ta sinh ra với một tâm trí vừa đối thoại vừa tương tác giữa các chủ thể. Để xem tổng quan về các mô hình mà tôi đã đề xuất, xin xem Hình 3.1.
Trong chương này, tôi đã lập luận rằng sự bắt chước ở trẻ sơ sinh là một dấu hiệu của sự tương tác chủ thể cơ bản mà có thể quan sát được, hoặc không, ở những trẻ em mà sau này có dấu hiệu của tự kỷ. Mô hình A (xem Hình 3.1) giả định rằng tất cả trẻ em, bao gồm cả những trẻ sau này phát triển tự kỷ, đều có khả năng bắt chước sơ sinh. Hơn nữa, khả năng sớm này cũng nối kết với tính chủ liên thể sơ cấp và phát triển các khả năng sau này như bắt chước có chủ đích và liên chủ thể thứ cấp. Trong mô hình này, một đứa trẻ có dấu hiệu tự kỷ từ khi sinh ra, không khác gì một đứa trẻ bình thường. Trẻ được sinh ra với khả năng liên chủ thể sơ cấp, và tự kỷ xuất hiện sau đó (được minh hoạ bằng đường chặn trong Mô hình A).
Ngược lại, giả thuyết được hình dung trong mô hình thứ hai (Mô hình B) đại diện cho một đứa trẻ sơ sinh với bộ não, ngay từ khi sinh ra, đã khác biệt so với sự phát triển điển hình. Mô hình này thể hiện ý tưởng được đưa ra bởi Rogers và Pennington (1991) rằng một đứa trẻ không thể tham gia vào các tương tác qua lại hoặc thể hiện hành vi bắt chước sơ sinh, sẽ có nguy cơ mắc tự kỷ. Do đó, việc thiếu phản ứng bắt chước ngay từ khi mới sinh có thể là dấu hiệu nguy cơ cho tự kỷ sau này.
Hình 3.1 Hai mô hình lý thuyết mô tả trạng thái tâm trí của trẻ sơ sinh liên quan đến mối quan hệ liên chủ thể khi sinh ra đối với một đứa trẻ sau này được chẩn đoán mắc tự kỷ. Giải thích: Mô hình A mô tả sự phát triển ban đầu điển hình; trẻ được sinh ra với khả năng tương tác liên chủ thể nguyên thủy và tự kỷ xuất hiện sau đó. Mô hình B mô tả một trạng thái khởi đầu khác biệt ngay từ đầu. Một đứa trẻ trong phổ tự kỷ không có khả năng tương tác liên chủ thể khi sinh ra; tâm trí không mang tính đối thoại ngay từ lúc bắt đầu (Trích dẫn từ Heimann, 1998, trang 100–101. Được in lại có sự cho phép)
Một vấn đề lớn, trong việc xác định xem việc bắt chước sơ sinh có quan trọng đối với sự phát triển của tự kỷ hay không, là tự kỷ thường không được chẩn đoán trước khi trẻ một vài tuổi, rất hiếm khi trước 2 tuổi (Ozonoff và cộng sự, 2015; Zwaigenbaum và cộng sự, 2020). Ngay cả khi nhiều bậc phụ huynh báo cáo hồi cứu rằng họ đã quan sát thấy vấn đề ngay trong năm đầu đời, thì vẫn không thể xác định một cụm hành vi chính xác nào đó giúp đạt được chẩn đoán chắc chắn sớm trong đời. Một vấn đề bổ sung là, một số trẻ em mắc tự kỷ, thể hiện một lộ trình phát triển điển hình từ khi sinh ra cho đến khoảng 12 hoặc 18 tháng tuổi, sau đó chúng bắt đầu mất đi các khả năng (Ozonoff và cộng sự, 2008; Ozonoff & Iosif, 2019; Pearson và cộng sự, 2018). Một ví dụ về kiểu hình thoái lui như vậy có thể là một đứa trẻ sau khi có khả năng chỉ tay và nói lời đầu tiên của mình thì bất ngờ dừng cả việc chỉ tay lẫn nói chuyện.
Davis và Crompton (2021) lập luận rằng những khó khăn xã hội mà chúng ta liên kết với tự kỷ có thể một phần là hệ quả của những tương tác hai chiều không thành công. Họ cũng khuyến khích chúng ta chấp nhận ‘góc nhìn khác biệt’ thay vì mô hình thiếu hụt truyền thống hơn. Do đó, chúng ta cần nghiên cứu chi tiết về khả năng xã hội-nhận thức, và tránh bất kỳ giả định trước nào về những gì mong đợi hoặc không mong đợi từ những người tự kỷ hoặc các nhóm đa thức thần kinh khác. Nếu chúng ta muốn hiểu cách khả năng xã hội và giao tiếp của những người tự kỷ tiến triển, chúng ta phải phân biệt giữa những vấn đề nằm trong cá nhân và những vấn đề phát sinh từ ‘sự không khớp của các động lực tương tác’ (Davis & Crompton, 2021; tr. 650).
Trẻ em có hội chứng Down (DS) thường được đưa vào so sánh trong nhiều nghiên cứu về tự kỷ. Sự phát triển sớm của chúng khác biệt so với trẻ em bình thường và trẻ em tự kỷ (mặc dù hai hội chứng đôi khi cùng tồn tại). DS là một dạng dị tật nhiễm sắc thể thường được nhận biết ngay khi sinh (thường thì cha mẹ đã nhận được thông tin này trong suốt thời kỳ mang thai), và hầu hết trẻ em có DS đều có sự khuyết tật trí tuệ nhẹ đến vừa (Di Nuovo & Buono, 2011; Roizen & Myers, 2020; Udwin & Dennis, 1995). Mặc dù DS được chẩn đoán sớm, nhưng có rất ít nghiên cứu tập trung vào sự bắt chước trong giai đoạn sơ sinh hoặc giai đoạn đầu của trẻ. Một nghiên cứu theo chiều dọc của Dunst (1990) ghi chép sự phát triển cảm giác-vận động của trẻ em có DS vẫn là một trong những nghiên cứu ít ỏi bao gồm bắt chước như một phần của đánh giá.
Những đứa trẻ nhỏ nhất trong nghiên cứu của Dunst chưa đầy 3 tuổi (M = 2,89 tháng), và chúng thể hiện mức độ bắt chước gần như điển hình (cách thức và giọng nói). Tuy nhiên, không có nhiệm vụ bắt chước nào bao gồm các cử chỉ khuôn mặt mà thường được sử dụng trong các nghiên cứu về việc bắt chước ở trẻ sơ sinh. Sự phát triển tổng thể của chúng gần như đạt mức độ tuổi ở lần quan sát đầu tiên (chỉ số phát triển của chúng được báo cáo là 85), nhưng khi được đánh giá ở độ tuổi 12 tháng, mức độ phát triển của chúng đã giảm xuống còn 62, rõ ràng dưới mức trung bình. Dunst mô tả sự thay đổi này như là một “hiện tượng chậm lại (mà) nổi bật nhất đối với sự bắt chước giọng nói” (Dunst, 1990; trang 224). Nói cách khác, trẻ em mắc hội chứng Down có vẻ như theo cùng một quỹ đạo phát triển như trẻ em điển hình, mặc dù với tốc độ chậm hơn.
Tìm kiếm các nghiên cứu về bắt chước ở trẻ sơ sinh và phát triển không điển hình
Đồng nghiệp của tôi, Emil Holmer, và tôi đã quyết định quét ba cơ sở dữ liệu khoa học lớn (PsycINFO, PubMed và Scopus) để tìm các công trình xuất bản bằng tiếng Anh về sự bắt chước có liên quan đến trẻ em mắc hội chứng Down (DS) hoặc rối loạn phổ tự kỷ (ASD) không quá 1 tuổi (xem Heimann & Holmer, 2021 để biết mô tả chi tiết). Động lực của chúng tôi không chỉ là tìm các nghiên cứu về sự bắt chước ở trẻ sơ sinh mà còn để xác định các nghiên cứu về sự bắt chước ở trẻ em trong ba tháng đầu đời. Để được đưa vào nghiên cứu, nó phải là công trình thực nghiệm nguyên bản, sử dụng ít nhất một thước đo sự bắt chước (ví dụ, quy trình thực nghiệm, phương pháp quan sát, đánh giá hành vi) và tập trung vào trẻ em mắc ASD hoặc DS. Tìm kiếm được thực hiện vào tháng 12 năm 2020 và tháng 2 năm 2021, đã dẫn đến tổng cộng 359 bản ghi trong đó 87% bị loại2 sau khi xem xét tiêu đề và tóm tắt. Trong số 50 bài báo còn lại được xem xét kỹ lưỡng hơn, chỉ có tám bài được giữ lại vì phần lớn không đáp ứng các tiêu chí của chúng tôi. Tìm kiếm ban đầu của chúng tôi đã bao phủ toàn bộ năm đầu đời chỉ để đảm bảo rằng chúng tôi sẽ không bỏ lỡ bất kỳ tài liệu liên quan nào.
Trong số tám tài liệu được chọn, sáu tài liệu bao gồm trẻ em mắc ASD hoặc có nguy cơ mắc ASD (ví dụ, anh chị em ruột), và chỉ hai tài liệu mô tả trẻ em mắc DS. Ngoại trừ một trường hợp, tất cả các nghiên cứu đều tập trung vào trẻ em trong nửa cuối năm đầu tiên (6–11 tháng tuổi). Trường hợp ngoại lệ là nghiên cứu của tôi (Heimann và cộng sự, 1998) bao gồm trẻ em mắc DS từ 1 tháng tuổi (sẽ được mô tả chi tiết hơn ở phần sau của chương). Mặc dù một trong những tài liệu về ASD đã mô tả sự phát triển của một cậu bé mắc ASD từ 0 đến 3 tuổi, báo cáo không đề cập đến hành vi bắt chước trước 9 tháng tuổi (Dawson và cộng sự, 2000).
Trong phần còn lại của chương, tôi sẽ cung cấp những quan sát sẽ bổ sung vào kiến thức hạn chế của chúng ta về việc bắt chước trong tháng đầu tiên của cuộc sống và trẻ em có đa thức thần kinh bằng cách trình bày (a) một video ngắn ở nhà về việc bắt chước khuôn mặt của một bé trai 3 ngày tuổi sau này phát triển tự kỷ, và (b) một sự phân tích lại về việc bắt chước khuôn mặt giữa năm trẻ 1 tháng tuổi mắc hội chứng Down (một phần được áp dụng từ Heimann & Holmer, 2021):
Sự bắt chước sơ sinh ở một đứa trẻ sau này phát triển tự kỷ
Như đã đề cập, không có nghiên cứu hệ thống nào về thực nghiệm hoặc quan sát về việc bắt chước ở trẻ sơ sinh hoặc trẻ nhỏ trong số các trẻ em mắc tự kỷ. Tuy nhiên, một cách tình cờ, một đoạn video ngắn tại nhà của một trẻ 3 ngày tuổi – Marcus – mà sau này được chẩn đoán mắc tự kỷ, đã được gia đình em cung cấp cho tôi. Video cho thấy người cha điều chỉnh cách thè lưỡi và cách mà Marcus phản ứng. Marcus đã nhận được chẩn đoán mắc tự kỷ trước sinh nhật thứ ba của bé, và câu chuyện của trẻ được tóm tắt trong các đoạn văn sau. Mô tả bắt đầu bằng cuộc sinh ra em, sau đó cung cấp một số thông tin về quá trình chẩn đoán, và cuối cùng, một mô tả về đoạn video được trình bày.
Marcus được sinh đủ tháng (tuần thai 38), và trọng lượng lúc sinh nằm trong phạm vi dự kiến, 3030 g. Không có dấu hiệu ngạt (suffocation), và điểm số Apgar của cậu hoàn hảo (10). Tuy nhiên, thai kỳ không hề đơn giản. Mẹ bé đã phải nhập viện một số lần do nhiễm trùng và viêm phổi. Mặc dù điểm số Apgar đạt tối ưu, Marcus đã được chẩn đoán mắc các biến chứng nghiêm trọng chỉ vài giờ sau khi sinh: Nhiễm trùng huyết GBS khởi phát sớm (nhiễm khuẩn huyết do trực khuẩn Streptococcus nhóm B), là một tình trạng có nguy cơ tử vong cao, có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và sự phát triển tiếp theo của trẻ, như được chứng minh trong một nghiên cứu của Libster và các cộng sự (2012). Họ đã nghiên cứu bốn mươi ba trẻ sống sót từ 3 đến 12 tuổi (tuổi trung bình = 6,8) và phát hiện rằng chỉ hơn nửa nhóm một chút (56%) thể hiện sự phát triển phù hợp với độ tuổi. Những trẻ còn lại có hoặc là suy giảm phát triển thần kinh nhẹ đến vừa (25%) hoặc nặng (19%). Các tác giả khẳng định rằng có một “nhu cầu về phòng ngừa GBS và theo dõi phát triển liên tục cho những người sống sót sau viêm màng não GBS” (trang e8).
Sau khi điều trị nhiễm trùng huyết GBS đầy đủ và ở lại bệnh viện hơi lâu trước khi về nhà, Marcus phát triển như mong đợi trong năm đầu đời của mình. Em có hai anh chị lớn hơn. Do đó, cha mẹ biết những gì cần mong đợi ở một đứa trẻ trong năm đầu tiên, và họ báo cáo rằng họ không nhận thấy điều gì bất thường trong giai đoạn đầu. Em đã có giao tiếp bằng mắt hợp lý, phát triển chỉ tay như mong đợi, và nói được từ đầu tiên trước sinh nhật một tuổi. Nhưng, khi mẹ em tiếp tục mô tả sự tiến bộ của em, mọi thứ đã thay đổi sớm trong năm thứ hai khi việc duy trì giao tiếp bằng mắt với em trở nên ngày càng khó khăn. Marcus đã ngừng nói chuyện, và em thể hiện ít và ít sự quan tâm đến những người khác. Thay vào đó, em thích những đồ vật và câu đố. Sự thay đổi trong hành vi của em tiếp tục và bắt đầu làm cha mẹ lo lắng. Khi em được 19 tháng tuổi, mẹ em tìm thấy một công cụ sàng lọc trực tuyến, Danh sách Kiểm tra Điều chỉnh cho Rối loạn Tư duy ở Trẻ nhỏ (MCHAT; Robins và cộng sự, 2001). Marcus nhận được điểm số 21 trên 23 trong MCHAT với kết luận sau: “Điểm số này cho thấy trẻ em của bạn có nguy cơ cao đối với tự kỷ hoặc một rối loạn phát triển khác, nên được đánh giá bởi một chuyên gia để nhận dịch vụ can thiệp sớm.”
Gia đình đã liên hệ với dịch vụ y tế, và được giới thiệu đến một phòng khám tâm thần kinh, và được tiến hành đánh giá ngay trước sinh nhật thứ hai của Marcus. Đội ngũ bao gồm một bác sĩ tâm thần trẻ em, một nhà tâm lý học thần kinh, một nhà trị liệu ngôn ngữ và thính giác, và một giáo viên giáo dục đặc biệt. Tôi sẽ không đi vào tất cả các chi tiết từ hồ sơ y tế của bé, nhưng một số trích đoạn từ các thăm khám tâm lý học thần kinh và bệnh lý cung cấp một bối cảnh tốt để hiểu lý do cho chẩn đoán của bé.
Nhà tâm lý học lưu ý rằng Marcus không nói lời nào và không sử dụng cử chỉ nhưng có khả năng thể hiện rõ ràng cả niềm vui và khi trẻ không thích điều gì đó. Trẻ dễ bị thất vọng, nhưng cũng tương đối dễ để đưa bé trở lại đúng hướng. Trẻ không khởi xướng bất kỳ tương tác nào và không phản hồi khi được mời. Trẻ sử dụng tay của mẹ khi cần bất kỳ sự giúp đỡ nào. Các nhà tâm lý học ghi chú rằng trẻ chỉ giao tiếp bằng mắt một lần trong suốt quá trình đánh giá.
Các nhà tâm lý học đã sử dụng chủ yếu hai công cụ trong đợt đánh giá ban đầu này: Thang đo Hành vi Thích ứng Vineland II (Sparrow et al., 2005), là một bảng hỏi phụ huynh, và một trắc nghiệm phát triển, Thang đo phát triển Griffiths I (Alin-Åkerman & Nordberg, 1983). Thang đo Griffith là một sự thay thế cho Bayley và đã được các nhà tâm lý học Thụy Điển sử dụng từ lâu khi đánh giá trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Kết quả có thể được chuyển đổi thành mức tuổi tương đương (age equivalents AE) chỉ ra mức độ tuổi tương ứng với các phản hồi mà một đứa trẻ đưa ra. Marcus nằm trong khoảng từ 24 đến 25 tháng tuổi khi được đánh giá bằng Griffiths. Kết quả là một hồ sơ không đồng đều. Điểm số của cậu bé gần với tuổi sinh học của mình trong ba lĩnh vực: vận động, phối hợp tay-mắt, và thang đo hiệu ứng (performance) (AE từ 17–22 tháng). Ngược lại, cậu bé thể hiện sự phát triển rõ rệt bị chậm trên hai thang đo nhạy cảm với ngôn ngữ: giao tiếp và phát triển xã hội (AE từ 6½ đến 11½ tháng). Vineland bổ sung thêm điều này, cho thấy rằng Marcus cũng gặp khó khăn với các khả năng thích ứng.
Kết quả từ lượng giá tâm lý được xác nhận cả bởi phân tích chi tiết về sự phát triển ngôn ngữ và giao tiếp của cậu bé được thực hiện bởi nhà trị liệu ngôn ngữ và lời nói, cũng như đánh giá ADOS được thực hiện bởi giáo viên giáo dục đặc biệt. ADOS hay Quy trình Quan sát Chẩn đoán Tự kỷ được phát triển vào cuối những năm 1980 (xem Lord và cộng sự, 1989, 2000) và đã trở thành công cụ chuẩn mực, gần như một tiêu chuẩn vàng cho việc đánh giá chẩn đoán trẻ em nghi ngờ tự kỷ. Bác sĩ tâm thần trẻ em xác nhận mô hình mà các thành viên trong nhóm của ông đã tìm thấy và kết luận rằng Marcus đáp ứng nhiều tiêu chí cho tự kỷ cổ điển và khuyết tật trí tuệ mà DSM-IV-TR liệt kê (Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ, 2000; xem Bảng 3.1).
Marcus nhận được một can thiệp bắt chước chuyên sâu dựa trên công trình của Nadel (ví dụ, Nadel, 2002) giúp cải thiện cả năng lực xã hội và giao tiếp của bé. Trẻ cũng tham gia một chương trình hành vi hiểu biết tại một trường mẫu giáo có nhóm đặc biệt cho trẻ em có nhiều mức độ triệu chứng tự kỷ khác nhau. Tuy nhiên, thật khó để đạt được hỗ trợ liên tục mà vừa đồng nhất vừa có chất lượng cao. Như với nhiều trẻ em có chẩn đoán tương tự, sự phát triển và hỗ trợ thêm của Marcus phần lớn dựa vào việc tập huấn và sự tham gia của cha mẹ trẻ. Những nỗ lực kết hợp này có tác động tích cực đến Marcus, và khuyết tật trí tuệ không còn là một chẩn đoán đầy đủ khi cậu bé bắt đầu đi học.
Bảng 3.1 Các tiêu chí của DSM-IV-TR cho chẩn đoán tự kỷ mà Marcus đã đáp ứng theo đánh giá lâm sàng của bác sĩ tâm thần Nhi.
Tiêu chí rút gọn DSM-IV cho tự kỷ | Lượng giá của Marcus | ||
1 | Sự suy giảm định tính trong tương tác xã hộia | ||
a. Sự suy giảm trong việc sử dụng hành vi phi ngôn ngữ (ví dụ: nhìn thẳng vào mắt) | có | ||
b. Không phát triển được các mối quan hệ đồng trang lứa | có | ||
c. Thiếu chia sẻ những niềm vui với người khác | có | ||
d. Thiếu tương tác xã hội/cảm xúc | có | ||
2 | Suy giảm chất lượng trong giao tiếp | ||
a. Sự chậm trễ hoặc thiếu phát triển ngôn ngữ nói | có | ||
b. Khó khăn trong việc bắt đầu cuộc trò chuyện | không | ||
c. Sử dụng ngôn ngữ theo cách đặc biệt | không | ||
d. Không chơi giả vờ hoặc chơi bắt chước | có | ||
3 | Mẫu hành vi, sở thích và hoạt động bị hạn chếb | ||
a. Bận tâm với khuôn mẫu sở thích bị hạn chế | có | ||
b. Tuân thủ cứng nhắc các thói quen | có | ||
c. Các kiểu vận động khuôn mẫu (ví dụ: vẫy tay) | có | ||
d. Bận tâm vào các bộ phận của đối tượng | không |
aHai tiêu chí phải được đáp ứng; bÍt nhất một tiêu chí phải được đáp ứng
Trong tài liệu này, việc bắt chước là trọng tâm, và liên quan đến Marcus, điều này bao gồm hai khía cạnh: liệu pháp bắt chước chuyên sâu đã được đề cập trước đó, được mô tả và thảo luận chi tiết hơn trong Chương 9, và đoạn phim tại nhà của cha mẹ cho thấy những gì có thể được hiểu là bắt chước chu sinh.
Quan sát video tại nhà
Khi Marcus được 3 ngày tuổi, cha bé đã dành thời gian tương tác với bé, trong khi mẹ của Marcus nhân cơ hội để chụp ảnh và quay video ngắn. Một trong những video này cho thấy người cha thè lưỡi khi ôm Marcus, bé bình tĩnh, chậm chạp trong cử động nhưng chú ý. Đoạn này chỉ dài khoảng 30 giây (xem Hình 3.2 và 3.3) trong đó cha bé có sáu lần thè lưỡi và Marcus đáp lại bằng ba lần thè ra. Đây là bằng chứng ngẫu hứng, phải được giải thích một cách thận trọng, nhưng điều đáng chú ý là Marcus không cho thấy động tác nào khác, chẳng hạn như mở miệng, trong thời gian ngắn ngủi này. Phản ứng đầu tiên là một cái lưỡi thè ra khoảng 20 giây sau khi cha bé thè lưỡi ra lần đầu tiên. Bất kể chúng ta có định nghĩa phản ứng của Marcus là bắt chước hay không, video cho thấy một trẻ sơ sinh 3 ngày tuổi, sau đó được chẩn đoán mắc tự kỷ, có thể khớp lần thè lưỡi. Và bé làm như vậy, theo cách mà ở nhiều khía cạnh, phỏng theo cách bắt chước cử chỉ khuôn mặt của trẻ sơ sinh đã được nghiên cứu và mô tả trong các nghiên cứu đã được xuất bản. Nếu bắt chước sơ sinh được liên kết với sự bắt chước và đáp ứng xã hội sau này, quan sát này cho thấy rằng đó không phải là một liên kết trực tiếp hoặc tự động. Trẻ tự kỷ mà chúng ta biết có mối quan hệ khác biệt và có vấn đề với thế giới xã hội, có lẽ không ít tính xã hội khi mới sinh so với những đứa trẻ phát triển “điển hình”, ít nhất là không nếu chúng ta cho phép quan sát ngẫu hứng này có một số trọng lượng khi tạo ra sự hiểu biết của chúng ta về cách trẻ tự kỷ phát triển.
Hình 3.2 (trên) Sự bắt chước thè lưỡi của Marcus, 3 ngày tuổi. Bé được chẩn đoán mắc tự kỷ khi 26 tháng tuổi. Các bức ảnh được trích xuất từ một đoạn phim gia đình dài 27 giây được ghi lại một cách tự nhiên bởi cha mẹ (Heimann & Holmer, 2021, Hình 3, trang 7), tái bản dưới Giấy phép Tác quyền Sáng tạo (CC BY).
Hình 3.3 (bên) Tổng quan tuần tự của video tại nhà cho thấy Marcus phản ứng bằng cách thè lưỡi theo làm mẫu của cha mình. (Lấy từ Heimann và Holmer (2021, Bảng 3, trang 8), được tái sản xuất theo Giấy phép Creative Commons Attribution (CC BY))
Bắt chước gần sơ sinh ở trẻ nhỏ mắc hội chứng Down
Như đã mô tả ở trên, chúng tôi không thể phát hiện ra nghiên cứu nào về sự bắt chước một cách rõ ràng trong giai đoạn sơ sinh cho trẻ em mắc hội chứng Down. Nghiên cứu duy nhất gần gũi là một nghiên cứu mà tôi thực hiện cùng với hai đồng nghiệp ở Gothenburg vào những năm 1990 (Heimann và cộng sự, 1998). Nghiên cứu này, ít nhất khi tôi viết chương này, vẫn là nghiên cứu duy nhất đã cố gắng nghiên cứu về sự bắt chước khuôn mặt ở những trẻ sơ sinh 1 tháng tuổi mắc hội chứng Down. Đối với tôi, đây là một quan sát đáng ngạc nhiên vì chúng tôi biết rằng tình trạng này hầu như luôn được biết đến ngay từ khi sinh ra, và vì sự khác biệt giữa trẻ sơ sinh điển hình và trẻ sơ sinh mắc hội chứng Down đã được báo cáo là ít rõ ràng hơn trong giai đoạn đầu đời, ít nhất khi tập trung vào sự phát triển xã hội – nhận thức sớm (Cicchetti & Beeghly, 1990; Dunst, 1990).
Nghiên cứu được mô tả sẽ được thực hiện, được hình thành vào đầu những năm 1990 với mục tiêu nghiên cứu về sự bắt chước khuôn mặt trong 3 tháng đầu đời ở trẻ em mắc hội chứng Down (DS), song song với những quan sát đã công bố trước đây của tôi về sự bắt chước từ lúc sinh đến 3 tháng ở trẻ sơ sinh bình thường (xem Heimann và cộng sự, 1989 và Chương 2). Kế hoạch ban đầu là thực hiện quan sát đầu tiên khi trẻ vẫn còn trong giai đoạn sơ sinh, tức là trước 1 tháng tuổi. Tuy nhiên, do cả lý do bệnh lý và tâm lý, điều này trở nên không khả thi. Trẻ em mắc DS thường cần hỗ trợ y tế và/hoặc đánh giá bổ sung ngay sau khi sinh, và đối với các bậc phụ huynh, ngay cả khi họ biết trước rằng con của họ mắc DS, giai đoạn sơ sinh thường trở thành thời gian điều chỉnh khi họ tập trung vào những vấn đề khác ngoài nghiên cứu. Cuối cùng, chúng tôi đã thành công trong việc tuyển chọn một nhóm tám trẻ em mắc DS sinh ra giữa tuần thai 36 và 39 (Mdn = 39). Đối với năm trẻ trong số đó, chúng tôi đã có thể thực hiện một quan sát đầu tiên gần với giai đoạn sơ sinh, khi trẻ ở tuổi trung bình 37 ngày tuổi (khoảng từ 25 đến 52 ngày).
Tất cả trẻ em đều được quan sát tại nhà khi có một hoặc cả hai phụ huynh có mặt trong suốt quy trình. Việc mở miệng (MO) và việc thè lưỡi (TP) được trình bày theo thứ tự ngẫu nhiên cho trẻ. Quy trình này tương tự như quy trình đã được sử dụng trong nghiên cứu trước của tôi về trẻ điển hình (để so sánh xem Chương 2, Hình 2.5): Mỗi cử chỉ được làm mẫu một cách chủ động trong khoảng thời gian 20 giây, được tiếp theo một khoảng một thời gian không làm mẫu có độ dài bằng nhau. Chuỗi này được lặp lại ba lần, cung cấp cho mỗi trẻ tổng thời gian quan sát là 120 giây (M = 122.1; SD = 9.4).
Hình 3.4 Hành vi bắt chước ở trẻ nhỏ mắc hội chứng Down (N = 5), ở độ tuổi 1 tháng: Tăng trung bình tỷ lệ thè lưỡi (TP) và mở miệng (MO) sau khi làm mẫu mỗi cử chỉ trong suốt thời gian của thí nghiệm (6 × 20 giây) cũng như chỉ trong các khoảng thời gian làm mẫu chủ động (3 × 20 giây). Xem văn bản để biết thêm chi tiết (dựa trên Heimann và cộng sự, 1998, Bảng 3 và 4; được sử dụng với sự cho phép).
Tất cả năm trẻ quan sát được ở khoảng 1 tháng tuổi đều bắt chước TP. Cụ thể, tất cả trẻ đều thể hiện nhiều TP hơn sau khi làm mẫu thè lưỡi so với khi làm mẫu MO. Cụ thể hơn, các trẻ đã tăng tỷ lệ trung bình với 3.3 lần thè lưỡi (khoảng từ 0.6–6.5) trong suốt thí nghiệm (xem Hình 3.4) sau khi thấy TP được trình bày, so với tần suất TP khi MO được trình bày (p = 0.025). Một mẫu hình tương tự được quan sát nếu chỉ phân tích ba giai đoạn làm mẫu tích cực (tăng trung bình 2.3 TP, khoảng từ 1.2–3.8).
Kết quả cho MO thì hơi khác một chút. Chỉ có ba trẻ bắt chước MO khi toàn bộ thời gian thử nghiệm được sử dụng để phân tích: Các trẻ đã tăng tần suất của mình trung bình 1.6 (phạm vi – 4.0–+3.9) lần mở miệng. Tuy nhiên, biểu đồ thì khác khi chỉ phân tích các khoảng thời gian làm mẫu chủ động. Bây giờ, tỷ lệ MO đã tăng với trung bình 4.0 MOs (phạm vi 0–7.3). Bốn trẻ em đã bắt chước MO, trong khi trẻ thứ năm thể hiện một mô hình không thay đổi, và tần suất mở miệng vẫn giữ nguyên (p = 0.0463). Nói cách khác, không có trẻ em nào phản ứng với một mô hình bắt chước-đối lập. Có nghĩa là, thể hiện tần suất MO cao nhất khi TP được làm mẫu.
Ngay cả khi nghiên cứu nhỏ này gợi ý rằng trẻ nhỏ mắc hội chứng Down cho thấy sự bắt chước gần lúc sơ sinh, thì điều đáng chú ý là các trẻ nhỏ mắc DS phản ứng khác với những gì chúng tôi đã quan sát trước đây ở các trẻ nhỏ điển hình. Các trẻ nhỏ mắc DS tạo ra nhiều động tác thè lưỡi hơn so với những gì chúng tôi thường thấy ở các trẻ nhỏ điển hình. Tỷ lệ trung bình mỗi phút cho động tác thè lưỡi là 10.7, trong khi các trẻ trong nghiên cứu cuối cùng của chúng tôi về các trẻ điển hình (để so sánh, xem Chương 2, Bảng 2.1) có tỷ lệ trung bình là 5.2. Sự khác biệt này không được quan sát cho động tác mở miệng, với tỷ lệ trung bình mỗi phút là 8.6 cho nhóm DS so với 8.3 cho nhóm điển hình.4 Sự khác biệt này giữa hai động tác một lần nữa gợi ý rằng chúng có thể được thực hiện khác nhau, điều mà cũng đã được lưu ý trước đó đối với các trẻ nhỏ điển hình (ví dụ, Heimann & Tjus, 2019).
Để khái quát hóa từ một nghiên cứu chỉ trên năm trẻ nhỏ là khó khăn và không được khuyến khích. Mặc dù trẻ em bị DS có thể là một nhóm thậm chí còn không đồng nhất hơn so với trẻ nhỏ thông thường, nhưng phát hiện từ năm đứa trẻ 1 tháng tuổi của chúng tôi tương đối rõ ràng. Trong thời gian các cử chỉ được làm mẫu tích cực, cả năm trẻ đều thè lưỡi và bốn trong số năm trẻ bắt chước há miệng. Không có trẻ nào thực hiện một mô hình không bắt chước, là tăng tần suất của cử chỉ không được bắt chước. Trẻ duy nhất không bắt chước không có sự thay đổi, tức là trẻ mở miệng số lần bằng nhau cả khi MO và TP được làm mẫu. Do đó, trong bài báo dựa trên bản tóm tắt này, chúng tôi kết luận “rằng trẻ em mắc hội chứng Down cho thấy khả năng bắt chước sớm tương tự như khả năng thường được mong đợi đối với trẻ nhỏ bình thường trong vài tuần đầu đời” (Heimann và cộng sự, 1998; trang 783). Một kết luận mà tôi vẫn tin là đúng.
Nỗ lực Khái quát: Đề xuất một mô hình cập nhật
Những quan sát thực nghiệm hạn chế được trình bày trong chương này gợi ý rằng nhiều trẻ em đa thức thần kinh, với ví dụ là ASD và DS ở đây, có thể có khả năng bắt chước và tính liên chủ thể thứ cấp tương tự như trẻ em điển hình ngay từ lúc sinh ra. Chắc chắn là, bằng chứng còn hạn chế, nhưng theo hiểu biết của tôi, đây là bằng chứng duy nhất tồn tại cho đến nay. Như đã rõ từ cuộc tìm kiếm tài liệu được mô tả trước đó, số lượng nghiên cứu về việc bắt chước ở trẻ sơ sinh liên quan đến ASD hoặc DS là bằng không.
Video gia đình của Marcus đặt ra một số câu hỏi quan trọng về một trạng thái khởi đầu cho trẻ em mắc tự kỷ. Mặc dù bằng chứng từ một video gia đình ngắn chỉ có thể được coi là gợi ý, nhưng sự chú ý và phản ứng rõ ràng của Marcus đã thách thức một số ý tưởng của chúng ta về sự khác biệt (hoặc không khác biệt) của một đứa trẻ nhỏ lúc mới sinh trên con đường tự kỷ so với những đứa trẻ mới sinh điển hình. Video này là quan sát được công bố đầu tiên trong loại hình này cho đến nay và, nếu được xem xét nghiêm túc, có những diễn tiến trực tiếp cho hai mô hình được mô tả trong Hình 3.1 ở phần trước của chương (Heimann, 1998). Mô hình A có lẽ gần với sự thật hơn mô hình B vì nó cho phép trẻ em có đường hướng tự kỷ sinh ra với khả năng tương tác giữa các chủ thể giống như những đứa trẻ điển hình. Tuy nhiên, trong bài viết của Heimann và Holmer (2021), chúng tôi đã lập luận rằng mô hình A cũng quá hạn chế vì nó không tính đến sự không đồng nhất của tự kỷ (Fountain và cộng sự, 2012; Georgiades và cộng sự, 2013; Mottron & Bzdok, 2020). Thay vào đó, chúng tôi đã trình bày hai mô hình mới, một cho ASD và một cho trẻ em mắc hội chứng Down (xem Hình 3.5).
Hình 3.5 Các mô hình mới được đề xuất dựa trên các quan sát được trình bày trong văn bản. Mô hình C đại diện cho Rối loạn phổ tự kỷ (ASD) và Mô hình D mô tả các con đường khả thi cho Rối loạn Down (DS). (Từ Heimann và Holmer (2021, tr. 11), sao chép dưới Giấy phép Ghi công Creative Commons) Giải thích về các con đường: Mô hình C: (1) Con đường a mô tả một đứa trẻ mắc chứng tự kỷ phát triển theo một quỹ đạo điển hình trong 12–18 tháng đầu tiên, sau đó xảy ra sự ngừng phát triển và đứa trẻ mất đi các khả năng xã hội đã được thuần thục trước đó (được chỉ định bởi con đường a1). Đứa trẻ này có thể cuối cùng tìm thấy mối quan tâm xã hội mới (có thể thông qua một can thiệp) và di chuyển qua con đường a2 để phát triển khả năng cho các mối quan hệ chủ-thể. (2) Con đường b mô tả một đứa trẻ chậm phát triển kỹ năng xã hội ngay từ năm đầu tiên nhưng lưu ý rằng ngay cả đứa trẻ này cũng có khả năng cho sự tương tác đầu tiên. Đứa trẻ có thể vẫn ở trong tư duy chú ý đến quan hệ chủ-thể nhưng cũng có thể sau đó tiến tới thế giới xã hội (được minh họa bởi b1). Mô hình D: Các con đường c và d gần như giống hệt với các con đường trong mô hình gốc do Bråten (1996) trình bày cho các trẻ phát triển điển hình. Cũng như ở Mô hình C, em bé phải hành động theo cách bổ sung và các tham gia viên bước vào vòng đối thoại của nhau ngay từ đầu. Hình cũng minh họa các con đường phát triển khác nhau cho mối quan hệ với mọi người so với các đồ vật. Sự khác biệt chính so với mô hình gốc của Bråten là thay vì các đường thẳng liên tục, các đường ở đây là các đường đứt đoạn để minh họa rằng trẻ em có DS thường cho thấy tốc độ phát triển chậm hơn và có thể không đạt được trạng thái kết thúc như mong đợi.
Mô hình mới được đề xuất cho ASD (Mô hình C trong Hình 3.5) nêu rõ hai quỹ đạo chính cho những trẻ em mà cuối cùng sẽ là tự kỉ. Đường đi a minh họa một trẻ phát triển bình thường trong một đến một rưỡi năm đầu, sau đó xảy ra sự thoái lui có nghĩa là một số kỹ năng xã hội hoặc giao tiếp bị mất (ví dụ, Thompson và cộng sự, 2019; Parr và cộng sự, 2011). Điều này được minh họa bởi đường đi a1. Đứa trẻ này có thể cuối cùng phát triển lại mối quan tâm xã hội (có thể thông qua một can thiệp tâm lý giáo dục) và di chuyển qua đường a2 để phát triển khả năng cho các mối quan hệ giữa các chủ thể theo kiểu tương tác giữa các chủ thể thứ cấp. Đường đi b minh họa một câu chuyện khác bằng cách hình dung một trẻ bắt đầu chậm lại trong kỹ năng xã hội và/hoặc giao tiếp ngay trong nửa sau của năm đầu tiên. Trẻ có thể vẫn giữ trong tâm trí tập trung vào các mối quan hệ chủ thể-đối tượng nhưng cũng có thể sau đó hướng tới thế giới xã hội (được minh họa bởi b1). Lưu ý rằng cả hai đường đi đều cho phép sự tương tác giữa các chủ thể ban đầu và bắt chước sơ sinh ngay từ lúc sinh ra. Theo Mô hình C, mọi khác biệt về kỹ năng xã hội và giao tiếp giữa trẻ em mắc tự kỉ và trẻ phát triển bình thường sẽ không thể phát hiện được trong 3-6 tháng đầu đời. Điều này cũng xác nhận với hiểu biết rằng không có dấu hiệu sinh học hoặc hành vi nào cho tự kỉ có thể được xác định ở trẻ sơ sinh dưới 6 tháng tuổi (ví dụ, Ozonoff và cộng sự, 2008; Shen & Piven, 2017).
Mô hình D minh họa hai con đường được đề xuất (c và d) cho trẻ em mắc hội chứng Down. Chúng gần như giống hệt với các con đường được phác thảo trong mô hình gốc của Bråten (1996) cho trẻ em phát triển bình thường. Ở đây, em bé có khả năng hành động theo hình thức bổ sung và các bên tham gia (phụ huynh và em bé) bước vào vòng tròn đối thoại của nhau ngay từ đầu. Sự khác biệt chính so với Bråten là thay vì các đường liền, các đường trong Mô hình D là đường gạch chéo, để minh họa rằng trẻ em mắc hội chứng Down thể hiện tốc độ phát triển chậm hơn và có thể không đạt được trạng thái cuối cùng như mong đợi. Ví dụ, Berger (1990, tr. 137) đã lưu ý rằng phần lớn “trẻ nhỏ mắc hội chứng Down có khả năng tham gia vào các tương tác qua lại với cha mẹ ngay sau khi sinh” mặc dù sự xuất hiện của nhiều hành vi xã hội (ví dụ: giao tiếp bằng mắt, cười và phát âm) bị chậm lại từ 2-3 tuần.
Theo quan điểm của tôi, bắt chước nên được thêm vào danh sách các hành vi xã hội sớm mà trẻ em bị hội chứng Down có khả năng thực hiện ngay từ khi sinh ra hoặc ngay sau đó. Điều này có nghĩa là trẻ mới sinh bị hội chứng Down có khả năng thiết lập các mối quan hệ với chất lượng của sự tương tác cơ bản. Tuy nhiên, năm trẻ em bị hội chứng Down tham gia vào nghiên cứu được mô tả ở đây đã có ít nhất một tháng kinh nghiệm xã hội trước khi quan sát, điều này khiến việc tách biệt sự bắt chước như một khả năng bẩm sinh với một kỹ năng được học nhanh chóng trong vài tuần đầu đời trở nên không thể.
Kết luận, tôi tin rằng cả trẻ tự kỷ và trẻ mắc hội chứng Down đều đến thế giới này kèm trang bị một bộ não xã hội. Còn đối với trẻ em điển hình, chúng có thể tham gia vào các cuộc đối thoại sớm và sử dụng năng lực cho sự tương tác ban đầu để thiết lập sự qua lại. Mặc dù đây là một kết luận tạm thời và có phần suy đoán dựa trên bằng chứng thực nghiệm hạn chế, nhưng nó vẫn là khả năng có khả năng xảy ra nhất dựa trên dữ liệu mà chúng ta có. Các nghiên cứu trong tương lai hy vọng sẽ cho phép chúng ta hình thành một kết luận rõ ràng hơn. Đối với trẻ mắc hội chứng Down, cần phải, thu thập các mẫu lớn hơn, nếu được thực hiện một cách có hệ thống theo thời gian. Vì tự kỷ được chẩn đoán tương đối muộn, nên không thể quan sát việc bắt chước sơ sinh trực tiếp, nhưng một khả năng chưa được sử dụng cho đến nay là bao gồm các quan sát sơ sinh (đọc: bắt chước) trong các nghiên cứu tương lai về anh chị em ruột của trẻ có ASD.
1Chương này dựa trên một bài báo gần đây của Heimann và Holmer (2021) được xuất bản như một bài viết truy cập mở theo điều khoản của Giấy phép Creative Commons Attribution-NonCommercial-NoDerivs. Thực tế, bài báo và chương này được viết song song với nhau.
2Lý do chính để loại trừ một nghiên cứu là nghiên cứu đó (1) không tập trung vào việc bắt chước (ví dụ: mô phỏng của các bệnh lý); (2) bao gồm một quần thể không phải con người; hoặc (3) bao gồm trẻ nhỏ mà lớn tuổi hơn các quần thể mục tiêu.
3 Test two-tailed (https://www.socscistatistics.com/tests/signtest/default.aspx)
4Trong ấn phẩm gốc, chúng tôi báo cáo điều này một cách khác biệt, thống kê rằng tỷ lệ cho MO cũng khác nhau giữa trẻ em bị hội chứng Down (DS) và trẻ em bình thường. Hiện tại, sự so sánh là với Heimann và Tjus (2019) đã sử dụng cùng một thiết kế thực nghiệm cơ bản như nghiên cứu về DS. Trong bài báo gốc, chúng tôi đã so sánh với các nghiên cứu trước đây (ví dụ: Heimann và cộng sự., 1989) chỉ sử dụng một lần trình bày duy nhất và một khoảng thời gian phản hồi duy nhất.
- Bs Đỗ Thị Thúy Anh